Share game FM24 (PC)
Trang thứ 4 trong tổng số 8 trang Trang đầuTrang đầu ... 23456 ... Trang cuốiTrang cuối
Hiển thị kết quả từ 31 tói 40 trong tổng số 79
  1. #31
    Ngày tham gia
    01 Jul 2007
    Số bài viết
    1,178
    Lee Dixon - Thành viên của bộ tứ huyền thoại



    Tên đầy đủ: Lee Michael Dixon
    Ngày sinh: 17/03/1964
    Nơi sinh: Manchester, Anh
    Vị trí: hậu vệ

    Đội trẻ: Burnley

    Thi đấu chuyên nghiệp*
    Năm Câu lạc bộ Số trận (bàn thắng)
    1982-1984 Burnley 4 (0)
    1984-1985 Chester City 57 (1)
    1985-1986 Bury 45 (5)
    1986-1988 Stoke City 71 (5)
    1988-2002 Arsenal 458 (24)

    Tuyển quốc gia**
    1990-1998 Anh 22 (1)

    * Số trận và bàn thắng cho câu lạc bộ ở giải trong nước tính đến ngày
    27/08/2006.
    ** Số trận và bàn thắng ghi đươc cho tuyển quốc gia tính đến ngày
    27/08/2006.

    Lee Michael Dixon (sinh ngày 17/3/ 1964 tại Manchester, Anh) là một thành viên của hàng phòng ngự lừng lẫy của Arsenal trong những năm 90 và về sau.

    Lee Dixon sinh trưởng tại Manchester và là cổ động viên Manchester City. Dixon đến với bóng đá đỉnh cao khá muộn - anh đã chơi cho Burnley (nơi anh đá ở đội 2), Chester City, Bury và Stoke City trước khi được huấn luyện viên của Arsenal ông George Graham đưa về vào 1/1988.

    Arsenal tìm người thay thế cho hậu vệ người Anh Viv Anderson, người đã bị bán sang Manchester United, thế là Dixon được đưa lên đội 1 ở Highbury. Với hậu vệ kì cựu Kenny Sansom ở bên trái, hậu vệ trái Nigel Winterburn đã thi đấu rất thành công ở vị trí hậu vệ phải đầy lạ lẫm, Dixon đã có trận ra mắt khi gặp Luton Town vào 2/1988 và chơi tổng cộng 6 trận trước khi mùa bóng kết thúc. Trong mùa hè, Sansom rời Arsenal và Winterburn được trả về vị trí, Dixon được mang áo số 2, ở vị trí mà anh đã chơi rất tốt trong hơn 10 năm.

    Khi lối chơi phòng ngự không còn làm vừa mắt khán giả, những cái đầu lọc lõi đã chuyển lối chơi Arsenal thành 4 hậu vệ, theo cách họ đã chơi ở những năm 90. Dixon và Winterburn chơi tại hai cánh, trong khi đôi trưởng Tony Adams và trung vệ kì cựu David O'Leary trấn giữ ở giữa. Năm 1989 họ đón nhận Steve Bould, người cũng như Dixon, đã được Graham đưa về từ Stoke City. Thế là 5 hậu vệ thường xuyên chơi tại các vị trí khác nhau của hàng phòng ngự, (hơn cả 4 hậu vệ truyền thống) là sự thay đổi quan trọng của Arsenal khi họ đoạt chức vô địch quốc gia năm 1989, danh hiệu đầu tiên từ sau cú đúp năm 1971, khi mà Graham vẫn còn là cầu thủ.

    Dixon là chuyên gia cướp bóng bên cánh phải, bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng hỗ trợ cầu thủ chạy cánh David Rocastle và kỹ năng tấn công của anh rất có tiếng ngay cả khi nhiệm vụ chính của anh là phòng ngự (và ưu thế chính bên cánh). Anh cũng có một ảnh hưởng mạnh mẽ trong suốt thời kỳ này khi anh là một chuyên gia sút Penalty của câu lạc bộ. Arsenal bị vượt qua tại League championship cho tới ngày cuối cùng của mùa bóng khi họ đối mặt với Liverpool tại Anfield vào tối thứ 6 một ngày cuối tháng 5.

    Trận đấu bị hoãn lại và mang lại rất nhiều lợi thế cho Liverpool, đội đã vượt qua nỗi ám ảnh khung khiếp về thảm họa Hillsborough và đoạt FA Cup, giữa Arsenal chỉ còn lại họ và cú đúp nữa. Arsenal đã trải qua rất nhiều các giải đấu bị ngăn chặn bởi Liverpool, cần phải thắng với cách biệt ít nhất là 2 bàn, đó là điểm khác biệt ghê gớm giữa 2 đội. Nếu không chức vô địch là của Liverpool.

    Trận đấu được duy trì với tỉ số 1-0 cho đến khi đồng hồ chỉ tới phút 90. Dixon một mình nhận bóng và thấy có cơ hội kết thúc 1 đường tấn công. Nhận thấy tiền đạo cắm Alan M. Smith đã dạt sang cánh phải, Dixon phất một đường bóng dài chuẩn xác đến ngực anh. Những bước chạy của Smith đã lôi kéo hậu vệ Liverpool chạy theo và tiền vệ Michael Thomas của Arsenal chọc ngay vào khe hở đó, nhận cú chuyền bóng hoàn hảo của Smith và bấm bóng qua đầu thủ môn Bruce Grobbelaar. Quá muộn cho Liverpool bắt đầu lại và chức vô địch là của Arsenal, danh hiệu đầu tiên trong bộ sưu tập của Dixon.

    Arsenal đã chiến đấu để bảo vệ chức vô địch (không thể tham dự Cup châu Âu bởi lệnh cấm các câu lạc bộ Anh sau thảm họa Heysel) nhưng niềm vui đến với Dixon khi anh có trận ra mắt tuyển Anh vào 4/1990 tại trận đấu trước World Cup gặp Czechoslovakia. Anh đã chơi tốt, nhưng hy vọng được gọi vào tuyển cho giải đấu lớn nhất hành tinh là rất nhỏ nhoi khi anh chỉ là sự lựa chọn thứ 3 sau Gary Stevens và Paul Parker. Chỉ có chấn thương xảy đến cho một trong 2 người mới mở ra cánh cửa cho Dixon tới Italy và điều đó đã không xảy ra.

    Sau World Cup, huấn luyện viên mới Graham Taylor ngay lập tức thay thế Stevens và Parker bằng Dixon, người đã ghi 1 bàn tại Wembley trong trận đấu thứ 6 của vòng loại Euro 92 trước Cộng hoà Ireland. Trận đấu kết thúc với tỉ số hòa 1-1. Cũng trong mùa bóng này, hàng thủ khét tiếng của Arsenal (bấy giờ David Seaman chơi ngay sau họ) ngày một tiến bộ, với chỉ 1 trận thua trong mùa bóng họ lại đoạt chức vô địch.

    Hết năm 1991, Dixon đã chơi 11 trận cho tuyển quốc gia, bao gồm tất cả các trận vòng loại Euro 92. Anh đã lọt vào vòng chung kết tổ chức tại Thuỵ Điển. Khi vòng chung kết diễn ra, Dixon gặp một chấn thương, do đó Stevens được gọi thay thế. Taylor điền tên Dixon thay vì Stevens trong danh sách dự tuyển, thế nhưng chấn thương đã đến trong một trận đấu. Stevens được gọi lại, cho đến khi hậu vệ của Rangers cũng gặp một chấn thương. Đội Anh phải thi đấu mà không có một hậu vệ cánh phải thực thụ trong đội hình và cũng chẳng vượt qua được vòng bảng.

    Sau mùa hè, Dixon trở lại tuyển Anh khi mà hàng phòng ngự của câu lạc bộ đang lỏng lẻo. Với O'Leary sắp giải nghệ, Graham đã bổ sung cho vị trí trung vệ khi đem về Martin Keown từ Everton –đáng chú ý ở chỗ đây chính là cầu thủ được gọi bổ sung cho vị trí hậu vệ phải tại Euro 92 sau khi cả Dixon và Stevens không thể thi đấu.

    O'Leary có trận cuối cùng ở vị trí hậu vệ phải của Dixon trong trận chung kết League Cup năm 1993 với Sheffield Wednesday do Dixon không đảm bảo thể lực. Arsenal thắng 2-1. Dixon trở lại trong trận chung kết FA Cup, trận đấu mà Arsenal dành thắng lợi sau khi đá lại, vì trận trước đã kết thúc với tỉ số hòa 1-1. Không may, vào năm 1993 tuyển quốc gia Anh thi đấu không tốt và thất bại tại vòng loại World Cup 1994 tổ chức tại Mĩ.

    Trận đấu thứ 21 của Dixon là chiến thắng 7-1 trước San Marino tại vòng loại WC ( một trận đấu thủ tục), cũng là trận cuối cùng dưới sự dẫn dắt của Taylor trước khi Terry Venables lên thay. Cuộc thử nghiệm với các hậu vệ phải chỉ kết thúc khi Gary Neville thi đấu thành công năm 1995, vị trí đó được duy trì đến bây giờ.

    Năm 1994, Dixon vô địch cúp Châu Âu để bổ sung vào bộ sưu tập chiến tích một hậu vệ huyền thoại của Arsenal, người luôn luôn dùng những khả năng của mình để ngăn chặn thành công lối chơi lắt léo của các cầu thủ khác. Một lần nữa, lối chơi phòng ngự hiếm khi là 1 cuộc trình diễn thế nhưng cái cách mà Dixon, Winterburn, Bould và Adams nỗ lực chứng tỏ được trình độ của mình trước những Tomas Brolin, Gianfranco Zola và Faustino Asprilla của câu lạc bộ Italia Parma thật là thú vị ngay cả đối với những khán giả tôn thờ chủ nghĩa bóng đá tấn công. Arsenal sớm ghi bàn trong trận chung kết European Cup Winners Cup tại Copenhagen và để hàng phòng ngự nghỉ ngơi, chung cuộc họ thắng 1-0.

    Dixon lại mang chiếc áo số 2 khi Arsenal tiếp tục sa sút vào năm 1995 nhưng họ đã vào chung kết Winners Cup một lần nữa. Mặc dù hàng thủ ở Paris đã bị Real Zaragoza chọc thủng, Arsenal nhanh chóng lập lại thế cân bằng và trận đấu phải đá thêm giờ. Hậu vệ hoàn thành nhiệm vụ nhưng lại xảy ra một cú sút rất tức cười tận đường biên gần giữa sân ở phút cuối cùng, thực hiện bởi Nayim (người vừa trở lại sau chấn thương, cựu cầu thủ Spurs) và giằng cup ra khỏi tay các Gunners.

    Cuối năm 1996, Arsène Wenger tới Highbury và bắt đầu tiến hành xây dựng lối chơi và chiến thuật của mình cho đội hình Arsenal, thay đổi hoàn toàn nhãn quan và cả chế độ dinh dưỡng. Điều này cho phép hàng thủ của Arsenal có thể kéo dài phong độ đỉnh cao. Ông Wenger ngay lập tức thay đổi cách chơi của các hậu vệ và yêu cầu họ chơi nhanh hơn, hợp lí hơn. Dixon và các đồng đội luôn luôn bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn đối với Wenger sau những chỉ bảo của ông để có thể kéo dài sự nghiệp.

    Arsenal lại đoạt cú đúp năm 1998 và Dixon đã được trao 1 kỉ niệm chương vì đã tham gia đầy đủ các trận đấu của Arsenal trong mùa giải đó. Anh cũng nhận được món quà bất ngờ khi được gọi lại vào tuyển Anh dưới sự dẫn dắt của Howard Wilkinson, người lên nắm quyền sau sự ra đi của Glenn Hoddle. Dixon đã chơi trong trận thua 2-0 trước đội Pháp ở Wembley, sau đó anh biến mất một cách lặng lẽ khỏi tuyển quốc gia và không bao giờ quay lại. Anh đã khoác áo tuyển quốc gia 22 lần nhưng không được tham gia giải đấu lớn nào.

    Dixon chơi tại UEFA Cup năm 2000, giải đấu Arsenal đã lọt vào trận chung kết cũng tại sân vận động Copenhagen nơi họ đã đoạt Winners Cup 6 năm trước đó. Trong trận đấu này họ đã bị đánh bại trong loạt penalty trước Galatasaray của Thổ Nhĩ Kì. Năm tiếp theo Arsenal lọt vào chung kết FA Cup nhưng thất bại trước Liverpool với tỉ số 2-1 tại sân vận động Thiên niên kỉ ở Cardiff - Dixon lúc đó đã 37 tuổi và sắp giải nghệ, anh không thể hoàn thành nhiệm vụ khi để cầu thủ Michael Owen 21 tuổi ghi 1 bàn thắng.

    Sau khi giải nghệ


    Dixon giải nghệ ngay trong mùa bóng mà Arsenal đoạt được 1 cú đúp khác. Cùng với sự ra đi của Adams, chỉ còn Seaman và Keown tiếp tục phục vụ cho câu lạc bộ kể từ ngày hàng phòng ngự trở thành hàng thủ được kính trọng nhất giải vô địch Anh. Sau khi O'Leary giải nghệ năm 1993, Bould là người tiếp theo của hàng phòng ngự trứ danh ra đi vào năm 1999 và Winterburn cũng rời Highbury một năm sau đó.

    Dixon gây ấn tượng sâu sắc ở Arsenal khi chơi 458 trận ở giải trong nước với 25 bàn thắng, hoàn thành bộ sưu tập huy chương khổng lồ.

    Sau khi giải nghệ và li dị, anh thử sức trong một số lĩnh vực kinh doanh trong đó có cửa hàng Riverside Brasserie ở Bray, Berkshire, cùng người bạn Heston Blumenthal. Anh tập chơi golf mỗi ngày ở câu lạc bộ Woburn. Anh cũng trở thành bình luận viên đài BBC, và gần đây bắt đầu kiếm được công việc chỉ đạo trong chương trình bóng đá Match of the Day.


    Because The Main One

  2. #32
    Ngày tham gia
    01 Jul 2007
    Số bài viết
    1,178
    Steve Bould - Thành viên của bộ tứ huyền thoại



    Tên đầy đủ: Stephen Andrew Bould
    Ngày sinh 16/11/1962
    Nơi sinh: Stoke, Trent, Anh
    Biệt danh: Bouldy
    Vị trí: Trung vệ

    Đội trẻ
    1978-80 Stoke City
    Thi đấu chuyên nghiệp*
    Năm Câu lạc bộ Số trận (bàn thắng)
    1980-1988 Stoke City183 (6)
    10-12/1982 Torquay United (cho mượn) 9 (0)
    1988-1999 Arsenal 288 (5)
    1999-2000 Sunderland 21 (0)

    Tuyển quốc gia
    1994 Anh B1 (0)
    1994 Anh 2 (0)

    * Số trận và bàn thắng cho câu lạc bộ ở giải trong nước.

    Stephen Andrew Bould (sinh ngày 16/11/1962) là cựu cầu thủ bóng đá người Anh.

    Sinh ra tại Stoke, Trent, Bould kí hợp đồng với đội trẻ của câu lạc bộ quê nhà Stoke City khi còn là học sinh trung học vào năm 1978 và được thi đấu chuyên nghiệp từ tháng 11/1980. Anh ra mắt ở vị trí hậu vệ phải trong trận thua 3-2 trên sân Middlesbrough vào tháng 9/1981. Thế nhưng, anh vẫn chưa thể khẳng định mình trong đội hình chính của câu lạc bộ và phải đến Torquay United vào tháng 10/1982 theo bản hợp đồng cho mượn và thi đấu 9 trận dưới quyền của huấn luyện viên Bruce Rioch.

    Bould dần dần được chơi ở đội hình chính của Stoke, cố định ở vị trí trung vệ, mặc dù một chấn thương lưng nghiêm trọng vào năm 1987 đe dọa sự nghiệp của anh, nhưng sau vài cuộc phẫu thuật anh đã trở lại. Anh chuyển tới Arsenal vào năm 1988, và trở thành một phần bộ tứ lẫy lừng của Arsenal, cùng với Tony Adams, Nigel Winterburn và người đồng đội ở Stoke là Lee Dixon. Bould đoạt hai danh hiệu vô địch quốc gia ở Giải hạng nhất vào mùa bóng 1988-89 và 1990-91; chấn thương khiến anh không thể tham dự trận chung kết FA Cup và League Cup khi Arsenal vô địch mùa bóng 1992-93.

    Sau khi chiến thắng trận chung kết Winners' Cup mùa bóng 1993-94, thành công đã rời bỏ Arsenal cũng như Bould trong vài năm tiếp theo, sự xuất hiện của huấn luyện viên người Pháp Arsène Wenger đã làm xuất hiện một số tin đồn về việc Bould sẽ rời câu lạc bộ (đặc biệt là vào lúc đó anh thường xuyên là sự lựa chọn số 2 sau Martin Keown). Thế nhưng với sự khích lệ nho nhỏ về việc phục hồi phong độ, Bould đã là một thành viên của đội hình giành cú đúp mùa bóng 1997-98 - Bould đã kiến tạo cho Tony Adams một pha cắt bóng thành công để Tony ghi bàn thắng chung cuộc 4-0 cho Arsenal trước Everton, họ đã giành danh hiệu vô địch Premiership sau đó.

    Tuổi tác không cho phép Bould tiếp tục chơi bóng đỉnh cao và sau khi kết thúc mùa bóng ở Highbury anh đã chuyển sang thi đấu cho Sunderland vào 7/1999 với mức phí là 500.000 bảng, huấn luyện viên Peter Reid ngay lập tức trao cho anh băng đội trưởng. Bould đã có 2 mùa bóng ở Stadium of Light, nhưng chấn thương đã buộc anh phải giải nghệ vào tháng 9/2000 sau khi chơi 21 trận cho Sunderland. Ngay lập tức anh bắt đầu theo học lớp đào tạo huấn luyện viên của UEFA và tháng 6/2001 anh trở lại Arsenal để làm huấn luyện viên đội trẻ.

    Mặc dù là thành viên của hàng phòng ngự lừng danh cuối những năm 80 cho đến giữa những năm 90 của thế kỉ trước, Bould chỉ 2 lần được khoác áo tuyển Anh, kém xa so với người đá cặp là trung vệ Tony Adams.


    Because The Main One

  3. #33
    Ngày tham gia
    01 Jul 2007
    Số bài viết
    1,178
    Martin Keown



    Tên đầy đủ: Martin Raymond Keown
    Ngày sinh: 24 – 7 – 1966
    Nơi sinh: Oxford
    Vị trí: hậu vệ

    Keown là mẫu cầu thủ bóng đá truyền thống của Anh trong khi lại là người gốc Ailen và đã gắn bó phần lớn sự nghiệp của mình trong màu áo Arsenal.

    Trong vai trò là một hậu vệ, Keown đã chơi cho một vài câu lạc bộ địa phương khi còn nhỏ trước khi gia nhập Arsenal theo một thoả thuận vào năm 1980, cho dù sau đó anh đã đá trận đầu ra mắt trong sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp cho Brighton & Hove Abilon theo hợp đồng cho mượn vào năm 1984. Keown đã quay trở lại Arsenal và chỉ kịp xuất hiện có 22 lần trước khi bị ngài chủ tịch mới của Arsenal khi đó là George Graham bán cho Aston Villa vào năm 1987.

    Keown đã chơi cho Aston Villa 3 mùa giải trước khi chuyển tới Everton vào mùa hè 1989. Tại Everton anh đã được lần đầu tiên thi đấu trong màu áo đội tuyển quốc gia trong trận gặp Pháp năm 1992. “Nhờ“ chấn thương của Mark Wright mà Keown đã được triệu tập vào đội tuyển Anh thi đấu tại Euro 92 và đã đá trong cả 3 trận của tuyển Anh.

    Tháng 2-1992, Keown đã kí một bản hợp đồng mới để quay trở lại câu lạc bộ cũ Arsenal với giá chuyển nhượng là 2 triệu bảng. Keown phải cạnh tranh vị trí hậu vệ trung tâm thứ hai để đá cặp với Tony Adams. Anh không xuất hiện trong màu áo Arsenal tại cả cúp FA và League Cup năm 1993 theo luật "cup-tied" và chỉ được thay vào trong trận thắng Parma giành cúp C2 một năm sau đó. Tuy nhiên anh đã trở thành một phần không thể thiếu trong cú đúp (gồm chức vô địch giải Ngoại hạng và vô địch cúp FA) năm 98 và 2002 của Arsenal dưới triều đại Arsene Wenger.

    Những thành công từ rất sớm của Keown trong màu áo đội tuyển quốc gia khi Graham Taylor còn dẫn dắt không được phát huy khi Terry Venables lên thay thế. Ông đã không trọng dụng anh. Cho đến tháng 3-1997 cơ hội mới lại đến với anh khi Glenn Hoddle làm HLV trưởng đội tuyển Anh. Sau đó Keown tiếp tục được tham dự World Cup 98 nhưng lại không được thi đấu. Phải đến triều đại của Kevin Keegan Keown mới thực sự được trọng dụng (đeo băng đội trưởng trong trận đấu gặp Phần Lan) và được chơi 2 trận tại Euro 2000. Khi Sven-Goran Eriksson trở thành HLV trưởng đội tuyển Anh, tuổi tác trở thành một vấn đề bất lợi cho Keown và cho dù vẫn có tên trong danh sách thi đấu tại World Cup 2002, một lần nữa anh chỉ là cầu thủ dự bị. Vắng mặt một số trong một số trận đấu đầu tiên dưới triều đại Eriksson vì lý do chấn thương nhưng anh đã quay lại đầy ấn tượng trong trận gặp Mexico và sau đó là trận gặp Hi Lạp tại vòng loại World Cup. Anh đá khá cặp khá ăn ý với Rio Ferdinand trong một dàn cầu thủ trẻ tuổi và phải cạnh tranh vị trí với Sol Campbell. Trong 43 lần khoác áo đội tuyển quốc gia Anh, Keown ghi được 2 bàn thắng.

    Keown chơi cho Arsenal cho đến năm 2004 cùng với Arsenal đạt được một chiếc cúp vô địch Ngoại hạng. Sau đó anh rời khỏi Arsenal theo một bản chuyển nhượng tự do. Anh đã ký hợp đồng với Leicester City nhưng lại rời bỏ chỉ sau đó hơn 6 tháng (có tin đồn rằng anh mâu thuẫn với chủ tịch của Leicester – Micky Adams) và tới chơi cho Leading từ tháng 1-2005 cho tới cuối mùa giải và rồi từ giã sự nghiệp cầu thủ.

    Keown gia nhập hội đoàn huấn luyện của Newbury vào tháng 8-2005 nhưng hiện nay anh đang tham gia công tác đào tạo tại Arsenal và được HLV cũ của Arsenal – Terry Neill tin dùng, coi là chìa khoá đằng sau thành công của hàng phòng thủ kiểu mới có vẻ còn non kinh nghiệm (được dùng đến như một phương sách để đối phó với vấn đề chấn thương) trong mùa giải 2005-06 mà đáng kể nhất là kỷ lục 919 phút không để thủng lưới tại Champions League.

    Tính đến lần thứ 400 khoác áo Arsenal trong chiến thắng giành cúp FA Community Shield trước MU đầu mùa giải 2002-03 Keown đã ghi được tổng cộng 8 bàn thắng cho câu lạc bộ.

    Danh hiệu

    Vô địch Ngoại hạng: 1998, 2002, 2004
    Vô địch cúp FA: 1998, 2002, 2003
    Á quân cúp UEFA: 2000
    Á quân cúp FA: 2001
    43 lần khoác áo đội tuyển quốc gia Anh


    Because The Main One

  4. #34
    Ngày tham gia
    01 Jul 2007
    Số bài viết
    1,178
    Tony Adams - Người đội trưởng huyền thoại



    Tên đầy đủ: Tony Alexander Adams, Tước hiệu Hiệp sĩ
    Sinh ngày: 10/10/1966 - Tại Romford, London
    Nick name: Mr.Arsenal

    Vị trí khi còn là cầu thủ: Trung vệ
    Hiện tại: trợ lí HLV Portsmouth.
    Gia đình: Vợ: Poppy, có một con trai tên Atticus năm nay 2 tuổi.
    Thành tích:
    - Khi còn là cầu thủ:
    Từ 1984–2002 chơi cho Arsenal , tham dự 504 trận đấu và ghi được (32) bàn
    Từ 1987–2000 cùng Tuyển Anh tham dự 66 trận đấu và ghi được (5) bàn
    - Huấn luyện:
    2003–2004 Wycombe Wanderers
    2006–nay Portsmouth (trợ lý)

    Sự nghiệp cầu thủ

    Adams sinh ra tại Romford, London. Anh ham mê bóng đá từ khi còn là một cậu bé. Adams gia nhập Arsenal năm 1980 khi còn đang đi học phổ thông. Tại đây anh đã gắn bó cả sự nghiệp cầu thủ 22 năm của mình với câu lạc bộ. Trận đấu đầu tiên Adams được đá chính là trận gặp Sunderland ngày 5 tháng 11 năm 1983 khi anh mới 17 tuổi. Lee Dixon, Nigel Winterburn, Steve Bould và Tony Adams đã hợp thành bộ tứ nổi tiếng ở hàng phòng ngự của Arsenal thời George Graham, người nổi tiếng về kỉ luật và bẫy việt vị.

    Ở tuổi 21 Adams trở thành người đội trưởng trẻ tuổi nhất của câu lạc bộ và anh tiếp tục giữ vị trí đó 14 năm liền.

    Với một hàng phòng ngự mạnh chơi trong một phạm vi rộng, Arsenal đã dành League Cup mùa giải 1986-87, sau đó họ tiếp tục leo lên những vị trí đầu năm 1988-1989, và tiếp tục thành tích đó ở mùa giải 1990-1991 và 1992-1993.

    Adams trở thành người đội trưởng đầu tiên của câu lạc bộ dành được cả hai danh hiệu League Cup và FA Cup. Và năm sau đó anh lại cùng Arsenal có được chiếc Cup C2 Châu Âu.

    Cũng trong thời điểm đó anh cũng đặt dấu ấn trong sự nghiệp thi đấu quốc tế của mình trong trận Anh gặp Tây Ban Nha năm 1987. Đó là trận đấu đầu tiên của Adams cho đội tuyển Quốc gia và sau đó là tham dự Euro 88. Sau khi sớm thành công trong sự nghiệp thi đấu quốc tế Adams gặp phải một chút rắc rối. Anh vắng mặt một cách ngạc nhiên tại World Cup 1990 bởi huấn luyện viên Bobby Robson, sau đó bở lỡ Euro 92 do bị chấn thuơng. Tuy vậy anh vẫn là cầu thủ không thể thiếu ở hàng phòng ngự. Sau khi Gary Lineker tiền đạo đội tuyển Anh giã từ sân cỏ năm 1992, Adams chia sẻ cho David Platt giữ chức đội trưởng không chính thức, mặc dù trước đó Adams đảm nhiệm tất cả ở Euro 96 khiến vị trí của Platt trở nên không chắc chắn. Đội tuyển Anh lọt vào đến vòng bán kết nhưng sau đó lại để thua Đức trên chấm phạt đền.

    Tuy vậy, cùng thời điểm đó vợ của Adams rất suy sụp vì chứng nghiện rượu của chồng. Adams thường xuyên la cà trong những quán rượu hay những hộp đêm và đã không ít lần lái xe loạng choạng gây tai nạn. Năm 1990 anh phải vào trại cai nghiện rượu trong ba tháng. Sau Euro 96 anh thừa nhận rằng mình là một người nghiện rượu trở nên tĩnh tâm hơn sau khi được điều trị. Anh tiếp tục theo học và còn tham gia những lớp piano. Anh đã vượt qua được chính bản thân mình và năm 1998 Adams trở lại là chính mình.

    Có lẽ cho đến giờ anh vẫn đội ơn Arsene Wenger bởi khi đến với Arsenal năm 1996 ông đã giúp Adams không nhỏ trong việc động viên dìu dắt anh. Ông trở thành người hướng dẫn lối sống mẫu mực cho các cầu thủ. Wenger đã tin tưởng anh và vẫn giao cho anh chức đội trưởng, sự ân cần của người thầy khiến Adams cảm thấy hình ảnh Wenger trở nên đẹp hơn bao giờ hết. Anh hiểu và đã làm được điều anh cần phải làm. Anh đã cùng Arsenal hai lần dành cú đúp Premiership và FA Cup những năm 1997-1998 và 2001-2002. Anh trở thành cầu thủ đội trưởng duy nhất trong lịch sử bóng đá Anh cùng câu lạc bộ dành chức vô địch ở cả 3 thập niên.

    Trong khi đó huấn luyện viên Glenn Hoddle của đội tuyển Anh đã trao băng đội trưởng cho Alan Shearer năm 1996. Một quyết định làm cho Adams không khỏi ngạc nhiên và tức giận cũng như để lại cho những cổ động viên đội tuyển Anh những câu hỏi khó hiểu. Adams vẫn tiếp tục thi đấu trong màu áo đội tuyển Quốc gia và cuối cùng cũng được tham giự World Cup 1998. Tại Euro 2000 đội tuyển Anh cũng không thành công. Sau khi Shearer không thi đấu cho đội tuyển quốc gia nữa Adams lại trở về với chiếc băng đội trưởng quen thuộc. Tuy nhiên trong những tháng đó đội tuyển Anh đã để tuột mất cơ hội đến Đức tháng 10/2000. Trận đấu cuối cùng được tổ chức trên sân Wembley trước khi sân vận động đó được xây lại. Trận đấu đó là lần thứ 60 Adams chơi trên mặt sân Wemley, một kỉ lục.

    Sau này, dưới thời của HLV Sven-Göran Eriksson vị trí của Adams được thay thế bởi Rio Ferdinand. Adams đã giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế của mình trước khi Eriksson lên nắm quyền HLV.

    Sau cú ăn đúp năm 2002 cùng Arsenal, Adams quyết định giã từ sân cỏ. Trận đấu cuối cùng của anh là trận chung kết FA cup 2002. Anh đã chơi 668 trận cho Arsenal (chỉ sau có David O'Leary) và là người đội trưởng thành công nhất trong lịch sử câu lạc bộ.

    Chiếc áo số 6 của “Mr Arsenal” đã không được sử dụng tới từ mùa 2001-2002 nhưng tới mùa giải 2005-2006 chiếc áo số 6 đó đã có người kế thừa - Philippe Senderos.

    Tháng 5 năm 2002 Adams trở thành cầu thủ Arsenal danh dự tham gia trận đấu với Celtic. Trận đấu có sự góp mặt của các huyền thoại Ian Wright, John Lukic. Và Adams trở lại cùng với bộ tứ huyền thoại Dixon, Winterburn và Bould. Trận đấu kết thúc với tỉ số hòa 1-1 với bàn thắng của Lee Dixon, trận đấu cuối cùng của anh trong màu áo The Gunners.

    Năm 2004 Admas được nhận vào English Football Hall of Fame với sự công nhận tầm ảnh hưởng của anh trong những trận đấu tại Anh.

    Sự nghiệp HLV

    Sau khi kết thúc một khóa học đào tạo quản lí thể thao tại trường đại học Brunel, Adams trở thành người quản lí chính thức của Wycombe Wanderers năm 2003. Tháng 11 năm 2004 anh từ chức.

    Ngày 7/7/2005 Adams nhận lời làm huấn luyện viên đào tạo học viên cho Feyenoord của Hà Lan. Anh đảm nhận một đội trẻ của Feyenoord. Sau đó anh có một thời gian ngắn ngủi làm huấn luyện viên trưởng cho Utrecht vào khoảng 15/1 đến 2/2 năm 2006.

    Ngày 28/6/2006 Admas tới Portsmouth với cương vị là trợ lí HLV của đội bóng, vị trí kế nhiệm Kevin Bond.

    Những công việc từ thiện

    Tháng 9/2000, với những kinh nghiệm về hậu quả của rượu, Adams đã lập ra một phòng khám chuyên khoa trong thể thao, một tổ chức với mục đích từ thiện chuyên cung cấp những phuơng pháp điều trị, những hướng dẫn và sự giúp đỡ những vận động viên thể thao có thể chấm dứt những vấn đề liên quan đến việc cai nghiện rượu, ma túy hay chất kích thích.


    Because The Main One

  5. #35
    Ngày tham gia
    01 Jul 2007
    Số bài viết
    1,178
    Liam Brady - Thế hệ vàng những năm 70



    Tên đầy đủ: Liam Brady
    Sinh ngày 13/2/1956 tại Dublin, Ireland

    CLB hiện tại Arsenal (Trưởng hệ thống Đào tạo cầu thủ trẻ)

    Sự nghiệp cầu thủ

    Đội trẻ :St. Kevin's Boys FC

    Thi đấu chuyên nghiệp*

    1973-1980 Arsenal

    1980-1982 Juventus

    1982-1984 Sampdoria

    1984-1986 Internazionale

    1986-1987 Ascoli

    1987-1990 West Ham United

    Đội tuyển quốc gia Cộng hòa Ireland (1974-1989) đá 72 trận (9 bàn)

    Sự nghiệp huấn luyện

    1991-1993 Celtic
    1993-1995 Brighton & Hove Albion

    Những cầu thủ từng chơi cho Arsenal, đa số đều không muốn nhắc tới giải Serie A. Đơn giản vì họ đều thất bại khi thi đấu tại đó như Platt, Bergkamp, Henry, Kanu... Chỉ có duy nhất Brady là thành công trên đất Italia sau thời gian chơi cho Arsenal. Cho tới ngày nay Ireland mới có cầu thủ thứ hai chơi bóng tại Serie A là Robbie Keane.

    Brady là của hiếm với bóng đá Ireland nói riêng và của nền bóng đá kiểu Anh nói chung. Ông chơi khá kỹ thuật và có những cú sút chân trái siêu đẳng. Năm 1971, khi mới 15 tuổi, Brady tới Highbury và chỉ một thời gian ngắn sau đó quanh London đã rộ lên cái tin rằng Arsenal đã có trong tay một của hiếm.

    Brady có phong thái của một cầu thủ lớn, có tầm nhìn và chơi rất tự tin. Những bước chạy của ông xé nát hàng phòng ngự đối phương để các tiền đạo khác như Malcolm MacDonald, Frank Stapleton hoặc Alan Sunderland lập công. Những bàn thắng của Brady đa phần là ngoạn mục và một trong số đó là bàn thắng vào lưới Tottenham năm 1978. Đó là một cú sút cầu vồng từ ngoài khu cấm địa ấn định tỷ só 5 – 0 cho Arsenal khi Giáng Sinh chỉ còn có 2 ngày nữa. Một món quà Noel tuyệt vời cho các CĐV Arsenal (vì Tottenham là đối thủ không đội trời chung của Arsenal).

    Bạn có thể thắc mắc rằng thành tích 43 bàn thắng trong 227 trận cho Arsenal sau 7 mùa liên tiếp của Brady không có gì ghê gớm cả. Nhưng những bàn thắng của Brady đều rất quan trọng, hơn nữa ông là mẫu cầu thủ kiến tạo hơn là săn bàn. Trong trận chung kết Cúp FA năm 1979 với M.U, sau khi bị dẫn trước 2 bàn Brady đã dốc bóng bên cánh trái chuyền cho Alan Sunderland ghi bàn, tạo điều kiện cho Arsenal lật ngược thế cờ thắng 3 – 2. Sau năm đó Brady được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải.

    Brady chơi trận đầu tiên cho Arsenal vào ngày 6/10/1973 (gặp Birmingham) và trận cuối cùng 7 năm sau (trong trận gặp Middlesbrough). Tháng 8/1980, Brady lên đường sang Italia chơi cho Juventus với giá chuyển nhượng 500.000 bảng (một số tiền khá lớn thời đó, khi kỷ lục chuyển nhượng cũng chỉ 1 triệu bảng). Cùng Juventus ông đã đoạt 2 chức vô địch Serie A năm 1981 và 1982. Những năm sau Brady còn chơi cho các CLB Sampdoria, Inter Milan và Ascoli trước khi trở về Anh tháng 3/1987 để chơi cho Westham.

    Sau khi treo giày, Brady trở thành HLV của Celtic và CLB hạng hai Brighton. Hiện nay, ông đang dẫn dắt lứa cầu thủ trẻ của Arsenal và đoạt được nhiều danh hiệu quan trọng.


    Because The Main One

  6. #36
    Ngày tham gia
    01 Jul 2007
    Số bài viết
    1,178
    Charlie George -Thế hệ vàng những năm 70



    Sinh ngày 10/10/1950 tại Anh
    Chơi tại Arsenal từ mùa giải 1966/67 đến 1974/75

    Người hâm mộ luôn có thể rộng lòng với những cầu thủ xuất sắc nhưng bất kham trên sân cỏ. Charlie George là một ví dụ. Tài năng kiệt xuất đi liền với sự nghênh ngang đầy thách thức, người biến những giấc mơ trở thành hiện thực và luôn khắc sâu hình ảnh Arsenal trong tim.

    Ngay từ khi còn nhỏ Charlie George đã nhiều lần đến sân Highbury để xem các Pháo thủ thi đấu. Ông say mê các trận đấu của Arsenal và luôn mong muốn có ngày trở thành cầu thủ ngôi sao. “Born to be the King of Highbury” (Sinh ra để làm vua trên sân Highbury), đó là sự ngưỡng mộ mà các cổ động viên Arsenal dành cho Charlie George.

    George là duy nhất. Không điều gì có thể khiến ông sợ hãi. “Tôi không phải là người yếu đuối. Tôi không bao giờ cảm thấy lạc lõng và có thể hòa nhập rất nhanh với mọi người. Khi còn nhỏ, tôi thường chơi bóng với các anh lớn hơn, điều đó khiến tôi tự tin và chấp nhận mọi thách thức. Tôi luôn có niềm tin vào bản thân, sẽ không có điều gì mà tôi không làm được với trái bóng. Đó là phương châm sống của tôi!”

    Frank McLintock, thủ quân của Arsenal mùa giải 70-71 nhớ lại: “Nếu George không ưa người nào, anh ta sẽ nói thẳng ra điều đó. Không bao giờ đánh mất vẻ nghênh ngang và rất thẳng thắn, trực tính, điều đó khiến George trở thành một cầu thủ đặc biệt”.

    Đồng đội có thể bỏ qua cho Charlie George bởi trên sân cỏ ông luôn chứng tỏ giá trị phi thường của mình. Thi đấu với thái độ khá hờ hững nhưng với cặp mắt tinh tường, những bước chạy nước rút thần sầu, ông nhanh chóng bắt đối phương phải trả giá bằng những pha kết thúc lạnh lùng. Charlie George có điệu bộ nhàn nhã, những cú bắt vô lê chính xác và rất mạnh cộng với kĩ thuật cá nhân hoàn hảo. Don Howe, huấn luyện viên phó của Arsenal khi đó nói: “Ngày nay chúng ta thán phục Zola, Cantona, Bergkamp... nhưng 30 năm trước, Charlie George tuyệt vời không kém. Anh ấy là một tay săn bàn bẩm sinh đồng thời là cầu nối quan trọng giữa hàng công và tuyến phòng thủ.”

    Tôi có thể chơi được ở nhiều vị trí – George nói – Đó không phải là vấn đề. Với tôi đá bóng chỉ là một trò chơi. Hãy đưa tôi quả bóng và tôi sẽ làm bất cứ điều gì bạn muốn, tại bất cứ nơi nào.”


    Because The Main One

  7. #37
    Ngày tham gia
    01 Jul 2007
    Số bài viết
    1,178
    Pat Rice - Thế hệ vàng những năm 70



    Tên đầy đủ: Patrick James Rice
    Ngày sinh: 17/3/1949
    Nơi sinh: Belfast, Bắc Ireland
    Cương vị hiện tại: Trợ lí huấn luyện viên

    Thi đấu chuyên nghiệp*
    Năm Câu lạc bộ Số trận (bàn thắng)
    1964-80 Arsenal 528 (?)
    1980-84 Watford 137 (?)

    Tuyển quốc gia
    1968-79 Bắc Ireland 49 (?)

    Sự nghiệp huấn luyện
    1984-96 Arsenal (huấn luyện viên tuyển trẻ)
    9/1996 Arsenal (huấn luyện viên tạm quyền)
    1996-nay Arsenal (trợ lí huấn luyện viên)

    * Số trận và bàn thắng cho câu lạc bộ ở giải trong nước.

    Patrick James Rice (sinh ngày 17/3/1949 tại Belfast) là cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Bắc Ireland. Ông đang là trợ lí huấn luyện viên ở Arsenal.

    Pat Rice đã dành hầu hết sự nghiệp đá bóng của mình ở Arsenal. Mặc dù sinh ra tại Belfast, ông lại lớn lên ở London và gia nhập đội trẻ Gunners vào năm 1964. Ông được ra mắt câu lạc bộ ở League Cup trong trận đấu với Burnley vào ngày 5/12/1967. Chơi hậu vệ phải, ông là một cầu thủ đầy nhiệt huyết tại câu lạc bộ trong những năm 70 của thế kỉ trước, và sau đó trở thành đội trưởng câu lạc bộ. Rice đoạt Inter-Cities Fairs Cup năm 1970 và cú đúp năm 1971 với chức vô địch quốc gia và FA Cup; tổng cộng ông đã tham dự 5 trận chung kết FA Cup nhưng chỉ dành 2 chiến thắng (1971 và 1979).

    Rice đã chơi tổng cộng 528 trận cho the Gunners trước khi chuyển sang Watford năm 1980. Ông cũng đã chơi 137 trận cho the Hornets, đưa câu lạc bộ thăng hạng First Division và trở thành đội trưởng trước khi giải nghệ vào năm 1984. Rice đã có 49 trận khoác áo tuyển quốc gia Bắc Ireland từ năm 1968 tới năm 1979.

    Rice trở lại Arsenal vào năm 1984 để làm huấn luyện viên đội trẻ, công việc mà ông đã làm trong suốt 12 năm sau đó, vô địch FA Cup giành cho đội trẻ hai lần vào năm 1988 và 1994. Tháng 9/1996 Rice được bổ nhiệm làm huấn luyện viên tạm quyền sau sự ra đi của Stewart Houston (người là huấn luyện viên tạm quyền sau khi Bruce Rioch bị sa thải). Ông đã chỉ đạo 3 trận ở FA Premier League (Arsenal toàn thắng) và một thất bại 3-2 ở UEFA Cup trên sân của Borussia Mönchengladbach. Sau khi Arsène Wenger trở thành huấn luyện viên vào cuối tháng đó, Rice trở thành trợ lí của Wenger, và trở thành chìa khóa cho thành công của câu lạc bộ trong những năm 90 của thế kỉ trước và những năm đầu thế kỉ 21, trong đó bao gồm cú đúp mùa bóng 1997-98 và 2001-02. Ông nắm giữ sự khác biệt (cùng với Bob Wilson) trong thành công của câu lạc bộ, ở cương vị cầu thủ lẫn huấn luyện viên, trong cả 3 cú đúp của Arsenal.


    Because The Main One

  8. #38
    Ngày tham gia
    01 Jul 2007
    Số bài viết
    1,178
    Frank McLintock - Thế hệ vàng những năm 70



    Frank McLintock, Tước hiệu Hiệp sĩ (Sinh ngày 28/12/1939) là cựu cầu thủ bóng đá người Scotland.

    Sinh ra tại Glasgow và lớn lên tại Gorbals, McLintock bắt đầu sự nghiệp ở vị trí tiền vệ tại Leicester City, ông có trận ra mắt năm 1959. Ông đã có 7 mùa bóng tại sân Filbert Street, lọt vào chung kết FA Cup 2 lần (1961 và 1963) và một chung kết League Cup (1964), nhưng đó là một chuỗi thất bại trong cả 3 cơ hội. Ông kí hợp đồng với Arsenal vào tháng 10/1964 và được đưa lên đội một.

    McLintock dành cả 9 mùa bóng sau đó cho Gunners, chuyển từ vị trí tiền vệ về đá trung vệ. Ông được đeo băng đội trưởng Arsenal từ năm 1967. Ông cũng tham gia 2 trận chung kết League Cup nữa (lại thua cả hai trận). Vỡ mộng, ông yêu cầu được chuyển nhượng vào năm 1969. Ông được huấn luyện viên Bertie Mee thuyết phục ở lại, và sự thay đổi từ con tim đó đã mang lại phần thưởng xứng đáng, đội trưởng McLintock của Arsenal đã đoạt được Inter-Cities Fairs Cup năm 1970 và sau đó đã đoạt cú đúp đầu tiên năm 1971 (Vô địch quốc gia và FA Cup); cũng năm đó ông đã được trao danh hiệu Football Writers' Association Footballer of the Year. ( Giải cầu thủ của năm của hiệp hội các cây bút viết về bóng đá).

    McLintock dẫn dắt Arsenal tới trận chung kết tại Wembley lần thứ 6 vào năm 1972 (trận đó, họ đã thua Leeds), và vị trí á quân tại Giải hạng nhất (cũ) năm tiếp theo, trước khi bị đưa sang câu lạc bộ QPR vào tháng 6/1973. Ông đã có 4 mùa bóng cùng the Hoops, và góp phần đưa đội bóng đi dự UEFA Cup sau khi đứng sau Liverpool vào năm 1976. Ông giải nghệ năm 1977. Tổng cộng, ông đã chơi hơn 700 trận, trong đó có 403 trận cho Arsenal, ông cũng có 9 lần khoác áo Scotland. Ông đã được phong tước Hiệp sĩ vào năm 1972.

    Sau khi giải nghệ, ông không mấy thành công trong sự nghiệp huấn luyện ở câu lạc bộ cũ Leicester, và sau đó là ở Brentford, cuối cùng là huấn luyện viên của Millwall, giúp câu lạc bộ lên Division One (giải đấu cũ). Ông cũng có thêm thành công trong sự nghiệp ở vai trò dẫn chương trình nấu ăn, bình luận viên cho đài BBC Radio, và gần đây nhất là cho Sky Sports.




    Because The Main One

  9. #39
    Ngày tham gia
    01 Jul 2007
    Số bài viết
    1,178
    Jon Sammels - Thế hệ vàng những năm 70



    Sinh ngày 23/7/1945 tại Anh
    Chơi tại Arsenal từ mùa giải 1962/63 đến 1974/75

    Jon Sammels là mẫu cầu thủ tận tụy và có phần trầm lặng, tuy nhiên ông rất được các cổ động viên yêu quý. Ngay trong trận đấu đầu tiên cho Arsenal, ông đã ghi bàn vào lưới Blackpool. Một sự khởi đầu tuyệt vời, người ta nhận thấy ngay ông sẽ là người kế tục George Eastham, đảm nhiệm vai trò dẫn dắt trận đấu. Có kĩ thuật, khéo léo, thuận cả hai chân với nhãn quan chiến thuật rất tốt, ông đã thỏa mãn sự kì vọng của các cổ động viên.

    Jon Sammels góp công lớn vào chiến thắng đầu tiên của Arsenal ở đấu trường châu Âu vào năm 1970 với những bàn thắng quan trọng. Tuy nhiên trong mùa bóng lịch sử 1970-1971, ông gặp phải chấn thương và phải ngồi ngoài phần lớn thời gian. George đảm nhiệm vị trí của ông. Nếu phải so sánh hai người thì George uyển chuyển hơn, không chiến tốt hơn nhưng bù lại Jon năng nổ hơn và cũng không kém phần tinh tế. Mùa giải 71-72 ông chuyển sang đá cho Leicester City và kết thúc sự nghiệp ở đây.


    Because The Main One

  10. #40
    Ngày tham gia
    01 Jul 2007
    Số bài viết
    1,178
    George Armstrong - Thế hệ vàng những năm 70



    George "Geordie" Armstrong (9/8/1944 – 1/11/2000) là cố cầu thủ và huấn luyện bóng đá người Anh, gắn bó phần lớn sự nghiệp với Arsenal.

    Sinh ra tại Hebburn, County Durham, Armstrong từng là một thợ điện trong lúc vấn tham gia chơi bóng, trước khi gia nhập đội trẻ Arsenal vào tháng 8/1961. Thuở ban đầu ông là một tiền đạo nhưng sau đó được cố định ở cánh. Ông có trận ra mắt không lâu sau khi gia nhập câu lạc bộ ở tuổi 17, trong trận gặp Blackpool vào 24/2/1962 (Arsenal đã thắng 1-0). Mặc dù bắt đầu trong vai trò học hỏi Johnny MacLeod và Alan Skirton, nhưng đến mùa giải 1963-64, ông đã trở thành cầu thủ chính thức. Mùa bóng 1964-65 ông chỉ bỏ lỡ có 2 trận.

    Trong sự nghiệp lâu dài với Gunners, Armstrong đã trở thành một trong những tượng đài lớn nhất, người được nhắc đến với những phẩm chất và sự chính xác trong những pha đột biên và đá phạt góc, và là một cầu thủ chạy cánh không biết mệt mỏi. Đầu tiên ông chơi bên cánh trái, nhưng lại tỏ ra đặc biệt hiệu quả ở bên phải. Với sự trưởng thành của mình, ông trở thành một trong vài cầu thủ dưới kỉ nguyên Billy Wright (cùng với Jon Sammels và Peter Storey) trở thành một phần quan trọng trong thành công của Wright cũng như người kế nhiệm Bertie Mee ở Arsenal, kết thúc một thời kì dài khát danh hiệu.

    Sau khi không thành công trong các trận chung kết League Cup mùa bóng 1967-68 và 1968-69, Armstrong đã giúp Gunners vô địch Inter-Cities Fairs Cup mùa bóng 1969-70 và cú đúp vô địch quốc gia - FA Cup năm 1970-71. Armstrong đã trực tiếp góp công trong cú đúp của đội năm đó, chuyền bóng cho Ray Kennedy đánh đầu ghi bàn trong trận gặp Tottenham Hotspur, sau trận đấu đó Arsenal đã giành chức vô địch quốc gia. Ông được bầu là Player of the Year của Arsenal trong năm 1970.

    Armstrong vẫn ở lại câu lạc bộ trong những năm 70, khi Arsenal thất bại trong tất cả các mặt trận sau cú đúp của họ. Ông chơi ít nhất 30 mỗi mùa trong cả thập kỉ. Ngoài ra, sau khi bị gạt ra bởi người kế nhiệm cho, Terry Neill, ông chuyển đến Leicester City trong mùa hè năm 1977 với giá 15.000 bảng. Ông chỉ chơi 14 trận ở League trong mùa bóng duy nhất cho Foxes và kết thúc sự nghiệp với Stockport County trước khi giải nghệ vào năm 1979.

    Dành tới 15 mùa bóng chơi cho Arsenal, nhiều nhất trong lớp cầu thủ lúc đó, Armstrong ở thời điểm đó đã lập kỉ lục câu lạc bộ về số trận đã đấu - với 621 trận cho đội một, bao gồm đúng 500 trận ở giải vô địch quốc gia. Kỉ lục của ông sau đó đã bị phá bởi David O'Leary và Tony Adams. Ông cũng từng ghi được 68 bàn thắng cho Arsenal. Điều đáng ngạc nhiên với một cầu thủ đẳng cấp cao như thế, ông chưa bao giờ được khoác áo tuyển Anh, mặc dù đã thi đấu ở đội trẻ và đội U21 nước Anh; cũng bởi vì chiến thuật của huấn luyện viên tuyển Anh Sir Alf Ramsey là không sử dụng cầu thủ chạy cánh.

    Sau khi từ giã sự nghiệp, Armstrong chuyển sang công tác huấn luyện và làm việc ở nhiều câu lạc bộ khác nhau, bao gồm Fulham, Aston Villa, Middlesbrough và QPR cũng như Narvik của Nauy. Năm 1990 ông trở lại Arsenal để huấn luyện đội hai, công việc mà ông đã làm trong phần đời còn lại, mặc dù rất nhiều huấn luyện viên đã phải ra đi đột ngột. Vào ngày 31/10/ 2000, Armstrong đã gục xuống sau một cơn xuất huyết não trong khi đang hướng dẫn tập luyện ở câu lạc bộ. Ông qua đời trong bệnh viện vào sáng sớm hôm sau.


    Because The Main One

Qui định gửi bài

  • Bạn không thể lập chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi bài phản hồi
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết
  •