Share game FM24 (PC)
Trang thứ 6 trong tổng số 8 trang Trang đầuTrang đầu ... 45678 Trang cuốiTrang cuối
Hiển thị kết quả từ 51 tói 60 trong tổng số 79
  1. #51
    Ngày tham gia
    31 Dec 2007
    Số bài viết
    420
    Michael Thomas


    Tên : Michael Thomas
    Thời gian thi đấu tại Liverpool : từ năm 1991 đến 1998
    Ngày sinh : 24 tháng 8 năm 1967
    Nơi sinh : Lambeth
    Chuyển đến từ : Arsenal ( tháng 12 năm 1991 )
    Số trận thi đấu : 161
    Bàn thắng : 12
    Danh hiệu : FA Cup ( 1992 )





    Michael Thomas ban đầu khi mới đến bị coi là một quyết định sai lầm nhưng sau đó ông đã được tha thứ bởi sự trung thành của ông tại Anfield khi mà ông ghi một trong những bàn thắng đẹp nhất tại cup FA , Vào tháng 5 năm 1989 , bàn thắng cuối cùng của ông ghi được cho Arsenal đã lạnh lùng cướp đi danh hiệu vô địch từ Liverpool . Không CĐV nào của The Reds có mặt trong buổi tối hôm đó quên được khoảnh khắc đấy và lúc đó thì bạn không nghi ngờ gì về việc cá 1 ăn một triệu rằng ông sẽ không bao giờ khoác chiếc áo in biểu tượng Liver Bird nối tiếng . Nhưng chỉ hơn 2 năm sau Thomas đã chính thức chơi dưới sự huấn luyện của Graeme Souness khi ông này bỏ ra 2 triệu bảng để kí hợp đồng với Thomas . Chắc hẳn ai cũng hoài nghi về việc các CĐV sẽ chào đón người đã làm tan vỡ trái tim họ nhưng trung vệ sinh ra ở Anh đã sớm lấy lại niềm tin ở họ . Sự có mặt của ông đựơc xem như là sự thay thế Steve McMahon , Thomas đã gây ấn tựơng ngay khi có màn trình diễn đầu tiên cho The Reds khi ra sân từ băng ghế dự bị trong trận thắng Tottenham 2-1 . Tốc độ và sức mạnh , đỉnh cao của ông là khi ông được đá chính trong trận chung kết FA Cup vào năm 1992 , ông đã ghi bàn thắng quyết định đưa Liverpool giành thắng lợi trước Aston Villa với đội hình còn có 8 người , màn trình diễn của ông tại Wembley khiến mọi người phải ghi nhớ . Ông đã từng có một cú vô lê tuyệt vời giúp Liverpool giành chiến thắng trước Sunderland và sau đó ông đã ấn định tỷ số 2-0 . Một tương lai tươi sáng đang mở ra cho cầu thủ người London nhưng sau đó ông lại gây thất vọng bởi một loạt các chấn thương , trong đó phải kể đến chấn thương ở dây chằng , điều đó đã làm ảnh hưởng đến sự tiến bộ vủa ông . Và vì thế sự nghiệp tại Liverpool của ông bị giậm chân tại chỗ , cuối cùng vào năm 1998 ông rời Anfield và tiếp tục thi đấu dưới sự chỉ đạo của Souness tại Benfica . Những chấn thương có thể đã ngăn ông trở thành cầu thủ vĩ đại của Liverpool nhưng cuối cùng thì ông đã chuộc lỗi được với The Kop .



    Chuyển tới : Benfica ( Tháng 8 năm 1998 )

    Dấu ấn : Ghi một bàn thắng tuyệt đẹp trong trận chung kết FA Cup năm 1992 .

    Hiện tại : làm việc tại một công ty an ninh

    Jonh Keith nói về Michael Thomas : " Anh ấy là một cầu thủ xuất sắc nhưng tiếc là lại trở thành nạn nhân của những chấn thương , quá nhiều chấn thương đã ngăn cản việc anh ấy làm nên ảnh hưởng mạnh mẽ tại Livepool , nhưng anh ấy có 2 dấu ấn trong quá khứ và anh ấy sẽ luôn được nhớ đến . "


  2. #52
    Ngày tham gia
    01 Jul 2007
    Số bài viết
    1,178
    Bertie Mee - Vinh quang sau 17 năm chờ đợi



    Sinh năm 1912
    Nơi sinh: Bulwell, Nottinghamshire, Anh quốc
    Năm mất: 10/2001

    Bertie Mee là một cầu thủ và HLV người Anh nổi tiếng vì là người đầu tiên giúp Arsenal đoạt được cúp đúp vào năm 1971.


    Sinh ra ở Bulwell, Nottinghamshire, Mee chơi bóng cho Derby County và Mansfield Town nhưng thật không may, một chấn thương đã kết thúc sự nghiệp ngắn ngủi của ông. Ông gia nhập đội Quân y Hoàng gia và học tập trong 6 năm để trở thành 1 bác sĩ vật lí trị liệu với cấp bậc trung sĩ. Bertie tiếp tục trau dồi học vấn và đến Arsenal năm 1960 với tư cách một nhà vật lí trị liệu.

    Năm 1966, phong độ của đội bóng đang hết sức tồi tệ, HLV khi đó là Billy Wright bị sa thải. Báo chí rầm rì về những cái tên ứng cử sáng giá nhưng ban lãnh đạo đã làm tất cả sửng sốt khi quyết định bổ nhiệm Bertie Mee vào cương vị đó. Thậm chí Bertie Mee cũng tỏ ra không tự tin, ông yêu cầu cho ông 12 tháng thử thách, nếu không thành công ông sẽ quay lại làm công việc trị liệu. Cũng phải nói rằng vào lúc đó kiến thức về bóng đá của ông là hết sức hạn chế, những năm tháng ngắn ngủi làm cầu thủ chỉ giúp ông có được những kinh nghiệm ít ỏi về kĩ thuật chơi bóng hơn là về tư duy chiến thuật, do đó ông tuyển Dave Sexton và Don Howe làm trợ lý cho mình.

    Nhưng cũng chính vì vậy, chúng ta phải kính phục Bertie Mee về trí tuệ và sự khôn ngoan của ông. Khi ông tiếp quản đội bóng, Arsenal đã có 17 năm trời không biết đến vinh quang. Các cổ động viên đã mất hết kiên nhẫn và Bertie Mee phải chịu một sức ép rất lớn. Nhưng rồi dưới bàn tay của ông, lứa cầu thủ đoạt cúp FA giành cho đội trẻ năm 1966 như Charlie George, John Radford và Ray Kennedy bắt đầu cho thấy một tương lai đầy triển vọng. Arsenal tiến vào cả 2 trận chung kết League Cup năm 1968 và 1969, nhưng đều thất bại trước Leeds United và Swindon Town. Tuy nhiên ngay mùa sau, Mee đã đem về cho Arsenal chiếc cúp châu Âu đầu tiên, cũng là danh hiệu đầu tiên của đội sau 17 năm trời. Đó là cúp Inter-Cities Fairs. Arsenal đã đánh bại Anderlecht với tổng tỉ số 4-3 sau 2 lượt đi và về. Dù đã bị dẫn trước 3-0 ở lượt đi., nhưng các Pháo thủ đã thi đấu một trận xuất sắc trên sân Highbury để lật ngược thế cờ.

    Fairs Cup chỉ là màn khởi động cho những kì tích thực sự sắp xảy ra, cú đúp huyền thoại (cúp FA và League Cup) năm 1971. Chức vô địch League Cup Arsenal giành được sau trận thắng đối thủ truyền kiếp Tottenham Hotspur trên sân White Hart Lane trong ngày cuối cùng của mùa giải, chỉ 5 ngày sau Arsenal tiếp tục hạ Liverpool với tỉ số 2-1 trên sân Wembley sau khi hết 2 hiệp phụ, bàn thắng được ghi do công của Charlie George. Bàn thắng này chính thức hoàn tất cú đúp lịch sự dưới thời Bertie Mee.

    Bertie Mee là một người có tài tổ chức, một nhà tâm lí tài giỏi và cũng rất coi trọng kỉ luật. Trong đội bóng ông đề ra chế độ thưởng phạt rất rõ ràng, nhờ vậy có thể quản lí tốt các cầu thủ trẻ. Có một câu chuyện kể rằng, trong kì nghỉ hè ở đảo Síp, các cầu thủ bị buộc phải dùng kem chống nắng khi tắm nắng, nếu ai không dùng mà để bị bỏng da sẽ bị phạt 50 bảng!

    Thực tế, Bertie Mee chỉ coi mình là người nhỏ bé trong một câu lạc bộ khổng lồ. Ông không thể sánh với HLV huyền thoại Herbert Chapman nhưng điểm chung giữa hai người là phong cách làm việc hiệu quả, mang lại những thành công thiết thực cho câu lạc bộ. Nếu Chapman là người tạo nên một Arsenal hùng mạnh thì Bertie Mee lại là người cứu giúp danh dự câu lạc bộ, đưa đội bóng kiêu hãnh từ bóng tối trở lại hào quang chiến thắng. Trong 10 năm dẫn dắt Arsenal, ông cùng câu lạc bộ có được mùa bóng 1970-1971 tuyệt vời với cú đúp đầy ấn tượng, ngoài ra có tới 6 mùa giải Arsenal xếp thứ nhất hoặc thứ nhì trên bảng xếp hạng.

    Đối với nhiều người, kỉ niệm ấn tượng nhất về ông là khi Arsenal đánh bại đối thủ truyền kiếp Tottenham để giành chức vô địch năm 1971. Có lẽ đó là lần duy nhất ông rũ bỏ vẻ lạnh lùng “phớt Ăng lê” để buông thả trong niềm vui chiến thắng. Các cầu thủ nhớ lại, ông đã xé toạc chiếc áo đang mặc, vừa reo hò vừa nhảy múa không ngừng trong phòng thay đồ.

    Tuy nhiên. Arsenal của Bertie Mee đã không thể duy trì thành công. Họ để thua Leeds trong trận chung kết League Cup năm 1972, và dần dần tụt xuống giữa bảng xếp hạng một cách khó hiểu. Mee chính thức tuyên bố từ chức HLV của Arsenal vào năm 1976. Sau đó ông về với Watford làm trợ lý cho Graham Taylor năm 1978, và sau này trở thành giám đốc của CLB này.

    Mee được trao tặng huân chương OBE năm 1984 vì những cống hiến của ông cho bóng đá. Ông qua đời năm 2001 tại London, thọ 82 tuổi


    Because The Main One

  3. #53
    Ngày tham gia
    01 Jul 2007
    Số bài viết
    1,178
    Tom Whittaker và những năm 30



    Tên đầy đủ: Thomas James Whittaker
    Ngày sinh: 21/7/1898 t ại Aldershot, Hampshire, Anh
    Ngày mất: 24/10/1956 t ại London, Anh
    Sự nghiệp cầu thủ:
    *1919-1925 : Arsenal, thi đấu 70 trận, ghi được 2 bàn thắng

    Sự nghiệp huấn luyện:
    *1947-1956 : Arsenal

    Thomas James Whittaker (MBE) là cầu thủ, huấn luyện viên người Anh, gắn bó hầu hết sự nghiệp với Arsenal

    Whittaker sinh tại Aldershot, Hampshire nhưng lớn lên ở Newcastle upon Tyne (được biết với cái tên Newcastle) từ năm lên 3. Ông chơi bóng trong giai đoạn đầu sự nghiệp của mình ở Đông Bắc nước Anh khi đang học tập trở thành kĩ sư thủy quân lục chiến, sau này ông công tác ở chuyên môn này tại công ty Hawthorn & Leslie. Ông gia nhập quân đội Anh vào năm 1917, sau đó chuyển sang Hải quân Hoàng gia Anh và chơi bóng cho quân đoàn Pháo binh Hoàng gia. Sau khi phục vụ tổ quốc trong Thế chiến thứ nhất, Whittaker gia nhập Arsenal vào tháng 9 năm 1919, đầu tiên ông chơi ở vị trí trung phong sau đó thì dạt ra cánh. Ông ra mắt lần đầu tiên là trong trận đấu với West Bromwich Albion vào ngày 6 tháng 5 năm 1920. Từ đó, ông được thi đấu thường xuyên trong đội hình chính thức trong những năm 20, ông đã chơi 70 trận và ghi 2 bàn.

    Năm 1925, tại một trận đấu ở Wollongong trong chuyến du đấu của Hiệp hội bóng đá Anh (FA) ở Úc, ông bị vỡ xương bánh chè và buộc phải treo giày.Vì muốn tiếp tục đeo đuổi niềm đam mê với trái bóng, ông tham gia khóa học về vật lí trị liệu và gia nhập đội ngũ các nhân viên quản lý của CLB. Sau đó ông trở thành chỉ đạo viên đầu tiên của Arsenal dưới quyền của huấn luyện viên Herbert Chapman vào năm 1927 (Khi đó ông vẫn còn trẻ hơn nhiều cầu thủ trên đường pitch). Whittaker đóng vai trò quan trọng đối với Chapman trong việc cải tiến cách tập luyện và chế độ điều trị bằng vật lí trị liệu ở câu lạc bộ. Ông là một phần rất quan trọng trong những thành công của câu lạc bộ trong thập niên 30.

    Sau cái chết của Chapman năm 1934, Whittaker vẫn tiếp tục phục vụ người kế nhiệm, George Allison, và trở thành thành viên ban huấn luyện tuyển quốc gia Anh. Thế chiến thứ hai diễn ra, Whittaker hoạt động như một dân quân của tổ chức ARP, trước khi trở thành phi công của Không Lực Hoàng Gia và được đứng trong hàng ngũ Phi đoàn trưởng. Vì sự phục vụ của mình, ông được trao tặng danh hiệu Hiệp sĩ Đế chế Anh(MBE)

    Kết thúc chiến tranh, Whittaker trở lại với công tác huấn luyện tại Arsenal. Sau khi Allison giải nghệ vào năm 1947, Whittaker trở thành huấn luyện viên mới của câu lạc bộ; dưới sự dẫn dắt của ông, câu lạc bộ đã đoạt chức vô địch quốc gia mùa bóng 1947-1948, 1952-1953 và chiếc cúp FA năm 1949-1950. Thế nhưng, thành công đã không đến với Arsenal trong những năm 50, Whittaker đã không thể đưa được ngôi sao nào đến với câu lạc bộ. Việc phải chịu quá nhiều trách nhiệm đã tác động rất xấu tới Whittaker. Ông qua đời trong một cơn đau tim tại London năm 1956, hưởng thọ 58 tuổi.


    Because The Main One

  4. #54
    Ngày tham gia
    01 Jul 2007
    Số bài viết
    1,178
    George Allison - người kế nhiệm Herbert Chapman



    Tên đầy đủ: George Allison
    Ngày sinh:12/1883
    Nơi sinh: Darlington, County Durham, Anh.
    Ngày mất: 13/3/1957
    Nơi mất: London, Anh.
    Huấn luyện viên Arsenal từ 1934 đến 1947.

    Sự nghiệp huấn luyện:
    *1934-1947 : Arsenal

    George Allison là một nhà báo viết về bóng đá, bình luận viên trên đài phát thanh và là một huấn luyện viên.

    Sinh ra tại Darlington, Allison bắt đầu viết báo tại quê hương (vùng Đông Bắc nước Anh) trước khi chuyển đến London vào năm 1905. Ông đã hợp tác với Woolwich Arsenal, và trở thành chủ bút viết những chương trình hoạt động, tuyên truyền cho câu lạc bộ. Ông tiếp tục hợp tác với đội sau khi họ chuyển tới Highbury và đổi tên thành Arsenal. Ông trở thành bình luận viên trận chung kết FA đầu tiên được phát thanh trên radio, đó là trận đấu giữa Arsenal và Cardiff City năm 1927.

    Lúc đó ông đã là thành viên của hội đồng quản trị câu lạc bộ. Đầu tiên ông làm thư kí, sau đó làm giám đốc quản lí. Sau sự ra đi đột ngột của huấn luyện viên huyền thoại Herbert Chapman vào tháng 1 na9m 1934, ông đã được đề bạt là người kế nhiệm chính thức của Chapman vào mùa hè năm đó.

    Sau Chapman và HLV tạm quyền Joe Shaw, ông cùng Arsenal chiến thắng tại League Championship (giải đấu danh giá nhất tại Anh lúc đó) vào 2 mùa liên tiếp (1932-33 và 1933-34). Ông đã biến nó thành 1 hat-trick khi giành danh hiệu thứ 3 liên tục vào mùa 1934-35. Ông cũng giành được cúp FA năm 1935-1936, và tiếp tục là League Cup một lần nữa vào mùa 1937-1938.

    Ông đã xuất hiện rất nổi bật trong bộ phim có tên: Highbury, The Arsenal Stadium Mystery (Highbury, sân vận động huyền bí của Arsenal) vào năm 1939. Trong phim, ông đóng vai chính mình. Một trong những câu nói quen thuộc của ông vào lúc giữa hiệp là: "1-0 cho Arsenal, đó là điều mà chúng tôi thích". Câu nói đó đã hình thành xu hướng thắng với tỉ số 1-0 của Arsenal trong nhiều thập kỉ sau đó.

    Allison không can thiệp vào vấn đề quản lí như người tiền nhiệm Chapman. Joe Shaw and Tom Whittaker chịu trách nhiệm về vấn đề huấn luyện và kỷ luật của đội, còn Allison tập trung vào các chính sách chuyển nhượng và mối quan hệ của câu lạc bộ với giới truyền thông. Cầu thủ Bernard Joy thuật lại chi tiết: "Ông ấy là người lịch thiệp, thân thiện và tốt bụng, nhưng hơi thiếu tầm nhìn trong việc mua bán cầu thủ cũng như sự hiểu biết về các cầu thủ chuyên nghiệp.” Những đề xuất và đóng góp của Allison đã mang về nhiều danh hiệu cho Arsenal, dù rằng đến cuối thập niên 30, Arsenal đã không còn là đội bóng lững lẫy như họ đã từng là. Allison đã không thể tìm được phương án thay thế những ngôi sao của đội trong nửa đầu thập kỷ, đặc biệt là Alex James.

    Thế chiến thứ hai diễn ra, những trận đấu bóng đá của nước Anh bị gián đoạn. Sau khi kết thúc chiến tranh, rất nhiều cầu thủ đã góp công tạo nên thành công cho Arsenal như Cliff Bastin và Ted Drake lần lượt nghỉ hưu. Và Arsenal kết thúc một mùa giải 1946-1947 đáng thất vọng tại vị trí thứ 13. Allison lúc đó đã gần 65 tuổi và đã mệt mỏi với công tác huấn luyện, ông quyết định dừng chân và nghỉ hưu. Sau vài năm mắc bệnh, ông đã qua đời năm 1957, thọ 74 tuổi.


    Because The Main One

  5. #55
    Ngày tham gia
    01 Jul 2007
    Số bài viết
    1,178
    Harry Bradshaw - cùng Arsenal tiến lên hạng Nhất



    Tên đầy đủ: Harry Bradshaw
    Sinh năm 1854, mất năm 1924
    Nơi sinh: Anh quốc
    Thời gian làm huấn luyện viên: 1896-1899
    Sự nghiệp huấn luyện:
    *1896-99 : Burnley
    *1899-1904 : Woolwich Arsenal
    *1904-09 : Fulham

    Harry là nhà cầm quân người Anh, mặc dù bản thân ông chưa từng là cầu thủ chuyên nghiệp,nhưng ông từng được bổ nhiệm làm thư tịch viên của Burnley FC năm 1891 và trở thành chủ tịch 2 năm sau đó. Năm 1896 ông trở thành HLV của đội, và dù cho ngay mùa giải đầu tiên của ông ở Giải hạng Nhất, đội đã bị xuống hạng, xếp cuối bảng và thua trận playoff, nhưng họ đã lên hạng ngay mùa sau, trở lại tốp dẫn đầu và về vị trí thứ 3 (1898-1899), đó là vị trí tốt nhất trong lịch sử câu lạc bộ này.

    Mùa hè năm 1899, Harry Bradshaw chuyển về miền Nam đến câu lạc bộ hạng hai Woolwich Arsenal, và cũng giống như đối với Burnley FC, sau một vài mùa giải thất bát ở gần cuối bảng xếp hạng, câu lạc bộ đã kết thúc ở vị trí thứ 2 vào mùa giải 1903-1904 và được thăng lên Giải hạng Nhất. Đó là lần đầu tiên trong lịch sử, câu lạc bộ được chơi lên chơi tại giải cao nhất của bóng đá xứ sở sương mù. Dẫu vậy nhưng ông chưa từng đưa câu lạc bộ lên được đến vị trí cao nhất, vì ông gia nhập giải Southern League (giải bán chuyên nghiệp) cùng với Fulham vào mùa hè năm 1904 và trở thành HLV chuyên nghiệp đầu tiên của câu lạc bộ này. Tại đây ông đã 2 lần đoạt chức vô địch ở giải Southern League và giành quyền lên chơi tại giải hạng hai vào cuối mùa giải 1906-1907. Ngay mùa đầu tiên thăng hạng, Fulham đã giành được thứ hạng cao và cán đích ở vị trí thứ 4, lọt vào bán kết cúp FA năm đó. Tuy nhiên họ không duy trì được vị thế của mình tại mùa giải sau và chỉ xếp ở vị trí ở vị trí thứ 10. Harry hết hợp đồng với Fulham sau mùa giải đó. Ông rời Fulham và trở thành thư kí của giải Southern League, vị trí mà ông nắm giữ cho đến khi nghỉ hưu năm 1921. Ông mất năm 1929.

    Con trai ông - Joe Bradshaw, đã chơi bóng cho Woolwich Arsenal dưới thời bố mình và tiếp bước ông để trở thành HLV cho câu lạc bộ Fulham.


    Because The Main One

  6. #56
    Ngày tham gia
    01 Jul 2007
    Số bài viết
    1,178
    Thierry Henry



    Sinh 1977-08-17
    Les Ulis - Paris
    France
    Vị trí Striker - Trung phong
    Số áo 14
    CLB Cũ

    AS Monaco - Juventus
    Gia nhập Arsenal 1999-08-03

    Đội trẻ

    1990-92: F.F.F Academi
    1992-93: FC Versailles

    Thi đấu chuyên nghiệp

    Năm CLB Trận (Số bàn thắng)
    1993-98 AS Monaco 105 (20)
    1998-99 Juvetus 16 (3)
    1999- Arsenal 237 (164)
    1997- ĐTQG Pháp 85 (36)

    Danh hiệu

    Với đội tuyển Pháp:
    - FIFA World Cup:
    Tham dự: 1998, 2002, 2006
    Vô địch: 1998
    Á quân: 2006
    - Euro:
    Vô địch: 2000
    Tham dự: 2000, 2004
    - Cúp liên lục địa: 2003
    Với Monaco:
    - Ligue 1: 1996-97
    - Siêu cúp nước Pháp: 1997
    Với Arsenal:
    - FA Premier League: 2001-02, 2003-04
    - FA Cup: 2002, 2003, 2005
    - FA Community Shield: 2002, 2004
    - Cúp C1: á quân 2006
    - UEFA Cup: á quân 2000.

    Sự nghiệp ban đầu

    Henry được đào tạo tại trường đào tạo của Liên đoàn bóng đá Pháp đặt ở Clairefontaine và khi còn bé từng chơi cho CO Les Ulis (1983-1989) sau đó là Palaiseau (1989–1990), Viry-Chõtillon (1990–1992) và FC Versailles (1992–1993). Henry khởi nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp tại AS Monaco và thực sự bắt đầu vào năm 1994 nhờ được HLV của AS Monaco khi đó là Asene Wenger phát hiện khi anh mới 17 tuổi. Henry được Wenger cho đá bên cánh trái thay vì đá vị trí tiền đạo mà anh vẫn đảm nhận vì vị trí tiền đạo đã được thay thế bởi cầu thủ Brazil Sonny Anderson.

    Sự nghiệp tại Juventus

    Gây được ấn tượng trong thành công của đội Pháp tại France 98, Henry rời Monaco và chuyển tới chơi cho câu lạc bộ Juventus của Italia vào tháng 1-1999 với giá 10,7 triệu bảng. Tại Juventus Henry được yêu cầu đá dạt sang bên cánh và ở một vị trí không phải là sở trường vì vậy anh không có cơ hội thể hiện nhiều và chỉ ghi được có 3 bàn thắng trong 12 trận đá cho Bianconeri.

    Sự nghiệp tại Arsenal

    Không thành công tại Italia, Henry rời Juvetus đến với Arsenal vào 8-1999 với giá 10,5 triệu bảng và gặp lại người thầy cũ tại Monaco, Wenger. Tại Arsenal, Wenger cho Titi đá lại vị trí sở trường là một tiền đạo. Ban đầu có một số người nghi ngờ rằng anh sẽ bị loại khỏi đấu trường khắc nghiệt của Premier League và sẽ không thể ghi bàn trong 10 trận đấu đầu tiên. Tuy nhiên Titi đã thể hiện một phong cách tuyệt vời, một lối đá đậm chất nghệ thuật nhưng cũng rất hiệu quả ngay từ lần đầu tiên đối diện với khung thành và trở thành một trong số các cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho Arsenal trong suốt 7 mùa giải gắn bó với CLB.

    Trở thành đội trưởng của Arsenal từ năm 2005, Henry đã thay thế xứng đáng cho Vieira. Anh được rất nhiều người coi là cầu thủ xuất sắc nhất trong lịch sử Arsenal và vào ngày 18-10-2005 Titi đã trở thành người ghi nhiều bàn thắng nhất trong mọi thời đại của câu lạc bộ. Hai bàn thắng ghi trong trận gặp Sparta Prague đồng nghĩa với việc anh đã phá vỡ kỷ lục 185 bàn thắng của Ian Wright. Ngày 1-2-2006, bàn thắng ghi được trong trận đấu gặp Westham đã nâng tổng số bàn thắng anh ghi được tại giải Ngoại hạng lên con số 151, phá vỡ kỷ lục của Cliff Bastin. Mùa giải 2005-06 cũng chứng kiến bàn thắng thứ 100 của Titi ghi trên thánh địa Highbury - một kỷ lục gần như không thể phá vỡ trong lịch sử câu lạc bộ. Đó là một kỳ tích của giải Ngoại hạng.

    Vào 7-5-2006 Henry đã lập một cú hatrick khi gặp Wigan Athletic trong trận đấu cuối cùng trên sân Highbury. Trận đấu của nhiều tâm trạng và cảm xúc ấy kết thúc với tỉ số 3-1 đã giúp Arsenal vượt qua đối thủ cùng thành phố Tottenham Hospur để đảm bảo một suất tại Champions League mùa giải tới. Bàn thắng thứ 3 của Titi - cũng là bàn thắng cuối cùng anh ghi trên sân Highbury là một quả penalty. Sau khi sút phạt thành công, Titi đã quỳ xuống và đặt một nụ hôn lên nền cỏ Highbury - nụ hôn tạm biệt. Đó là khoảnh khắc tuyệt vời...

    Tại UEFA Champions League 2005-06 Arsenal đã vượt qua rất nhiều đối thủ sừng sỏ để đi vào tới trận chung kết tại Paris với một kỷ lục: 10 trận liên tiếp bất bại - tổng thời gian giữ sạch lưới lên tới 919 phút.

    Một pha tấn công của Titi đã giúp Arsenal giành được chiến thắng 1-0 trước gã khổng lồ Real Madrid trong trận lượt đi vòng đấu loại trực tiếp 1/16 ngay trên thánh địa Bernabeu. Một cú chuyền như đặt cho Farbegas và một bàn thắng, Titi Henry đã đưa Juventus trở thành “nạn nhân” tiếp theo tại tứ kết.

    Henry đối đầu với Barcelona trong trận chung kết kịch tính tại Paris 17-5-2006 quê hương anh trong những lời đồn đại về tương lai của anh tại Barcelona. Trận đấu đã mở đầu thật tồi tệ cho Arsenal khi thủ môn Lehmann phạm lỗi với Eto’o và bị một thẻ đỏ trực tiếp đuổi khỏi sân trong sự bàng hoàng của các cầu thủ và các fan Arsenal. Một sai lầm của trọng tài! Tuy nhiên chính trong thời điểm khó khăn ấy các pháo thủ đã biết cách chứng tỏ mình bằng việc vươn lên dẫn trước 1-0 với bàn thắng bằng đầu cực kỳ dũng mãnh của Sol Campbell. Nhưng số phận đã không mỉm cười với Arsenal, Barca lội ngược dòng thành công chỉ trong 15 phút cuối. Henry đã phải chịu những lời chỉ trích gay gắt khi bỏ lỡ nhiều cơ hội, cụ thể là hai lần bị thủ môn của Barca Victor Valdes từ chối bàn thắng.

    Trong mùa giải 2005-06 Henry cũng có liên hệ với ý định sẽ chuyển sang Barcelona hay Real Madrid nhưng cuối cùng anh quyết định gắn bó với Arsenal. Hành động đó đã cho thấy lòng trung thành và tình yêu cho câu lạc bộ và anh ký hợp đồng 4 năm sau trận chung kết C1.

    Hiện tại Thierry Henry đứng thứ 3 trong top cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất trong lịch sử giải Ngoại hạng, kém 96 bàn so với Alan Shearer đứng ở vị trí đầu tiên và 21 bàn so với Andy Cole ở vị trí thứ 2 ( nhưng đừng quên Titi mới 29 tuổi và phía trước anh còn 4 mùa giải với Arsenal).

    David Dein, phó chủ tịch Arsenal tuyên bố câu lạc bộ từ chối hai cái giá 50 triệu bảng “của những câu lạc bộ Tây Ban Nha” trước khi ký hợp đồng mới. Nếu như một trong hai cái giá đó được chấp nhận thì có lẽ Henry sẽ là cầu thủ đắt nhất thế giới - phá vỡ kỷ lục chuyển nhượng 47 triệu bảng mà Real Madrid đã phải trả để có được Zinedine Zidane năm 2001. (Thật may kỷ lục này chỉ được đặt trong câu điều kiện 3).

    Thierry Henry cũng là người ghi bàn đầu tiên trên sân vận động mới của Arsenal - Emirates trong trận đấu chia tay Bergkamp vào 22-6-2006. Có lẽ Henry là cầu thủ của những kỷ lục đá cho một đội bóng của những kỷ lục.

    Giải thưởng

    Henry đã nhận được rất nhiều lời ca tụng và những phần thưởng. Đó là điều xứng đáng dành cho anh - một cầu thủ tài năng, nổi tiếng về tác phong lịch lãm và tư cách đứng đắn.. Anh đứng thứ 2 cho danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới 2003 và 2004 do FIFA bình chọn khi đang cùng Arsenal lập lỷ lục bất bại (26 trận thắng, 12 trận hoà) tại giải Ngoại hạng Anh. Henry cũng đạt được danh hiệu Cầu thủ của năm do hội nhà báo bóng đá bình chọn 3 lần, và danh hiệu cầu thủ Pháp của năm 4 lần - một kỷ lục của mọi thời đại khó có thể phá vỡ. Mùa bóng 2004-05 mặc dù Arsenal chỉ đứng thứ hai tại Premier League Henry vẫn toả sáng với danh hiệu Đôi giày vàng Châu Âu lần thứ 2 liên tiếp (mặc dù phải “ chia sẻ ” với cầu thủ Diego Forlan của Villareal năm 2005). Anh là cầu thủ đầu tiên giữ được danh hiệu đó.

    Sự nghiệp quốc tế

    Thierry Henry được đá trận đấu quốc tế đầu tiên vào 10-1997 trong trận Pháp - Nam Phi. 4 tháng trước đó anh đã chơi cho U20 của Pháp trong giải trẻ thế giới 1997. Anh cũng nằm trong tuyển Pháp tham dự WC 1998 và nằm trong Top cầu thủ Pháp ghi bàn với 3 bàn thắng. Henry cũng nằm trong danh sách cầu thủ Pháp đá trận chung kết - trận thắng Brazil 3-0 với vai trò cầu thủ dự bị. Ở tuổi 21 anh đã được cùng đồng đội nâng cao chiếc cúp vô địch Thế giới. Sau đó, Henry cùng đồng đội được nhận huân chương cao nhất của nước Pháp - Bắc Đẩu Bội Tinh.

    Henry tiếp tục là thành viên của đội tuyển Pháp tham gia Euro 2000, lại tiếp tục ghi 3 bàn thắng và nằm trong top cầu thủ ghi bàn của đội Pháp trong đó có bàn thắng san bằng tỉ số trong trận bán kết gặp Bồ Đào Nha. Pháp đã giành chiến thắng trong trận đấu đó ở hiệp phụ nhờ vào pha đá phạt đền thành công của đội trưởng Zinedine Zidane.

    Tuy nhiên WC 2002 đã phải chứng kiến đội Pháp của Henry với tư cách là đương kim vô địch sớm bị loại khỏi vòng đấu bảng khi mà họ không thể ghi dù chỉ là một bàn thắng. Sau khi để thua ngay trận đầu tiên ra quân tại WC, Pháp lại bị tổn thất khi Henry bị phạt thẻ đỏ do phạm lỗi trong trận đấu thứ 2 của họ gặp Uruguay. Pháp phải chấp nhận hoà 0-0 còn Henry bị buộc phải vắng mặt trận đấu cuối cùng - trận đấu mà Pháp thua Đan Mạch 0-2.

    Năm tiếp theo, Henry quay trở lại đội tuyển tham dự cúp Liên lục địa. Đội tuyển Pháp thiếu vắng hai trụ cột là Zidane và Vieira đã giành chiến thắng nhờ công lớn của Henry - người được trao tặng danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu 3 trong 5 trận của đội tuyển Pháp. Và trong trận chung kết, anh ghi bàn thắng vàng ở hiệp phụ để đưa Pháp giành chiến thắng trước Cameroon 1-0. Henry nhận được cả hai giải thưởng: Quả bóng vàng cho cầu thủ xuất sắc của giải và Đôi giầy vàng cho cầu thủ ghi được nhiều bàn thắng nhất.

    Henry cũng cùng đội Pháp tham dự Euro 2004, thắng Anh tại vòng bảng nhưng lại bị thua Hy Lạp tại tứ kết.

    Tại WC 2006, Henry là một mẫu cầu thủ được chơi tự do trong đội hình Pháp. Anh đá ở vị trí tiền đạo cắm và mặc dù khởi đầu trận đấu có vẻ rất mờ nhạt thậm chí là thờ ơ thì anh luôn tiềm ẩn sự nguy hiểm. Bằng chứng là anh vẫn nằm trong Top cầu thủ ghi nhiều bàn thắng tại WC. Anh ghi được 3 bàn trong đó có 1 bàn thắng rất quan trọng trong trận gặp Brazil - bàn thắng thể hiện sự nhanh nhạy, đẳng cấp của một tiền đạo hàng đầu thế giới. Anh cũng “kiến tạo” được hai quả phạm lỗi dẫn đến hai quả phạt mà kết quả là hai bàn thắng quan trọng. Một số bình luận viên chỉ trích anh vì giả vờ ngã và Pháp đã thắng một cách không thuyết phục trong trận gặp Tây Ban Nha. Nhưng trước khi chỉ trích Henry và Pháp, hãy nên trách Tây Ban Nha vì những sai lầm trong chiến thuật. Nhưng thật đáng tiếc Pháp đã để thua Italia trong trận chung kết bằng loạt sút Penalty định mệnh. Đơn giản vì Chúa là người Italia.

    Henry nằm trong danh sách 10 cầu thủ được để cử Quả bóng vàng cho danh hiệu cầu thủ xuất sắc nhất WC, phần thưởng mà cuối cùng đã thuộc về người đồng đội của anh trong tuyển Pháp - Zinedine Zidane.

    Gia đình và hôn nhân


    Là tuyển thủ quốc gia Pháp nhưng cha của Henry là người đảo Guadeloupe còn mẹ anh là người Martinique. Vào 27-5-2005 Henry chào đón sự ra đời của đứa con đầu lòng, một bé gái xinh xắn có cái tên thật đáng yêu: Tea Henry. Henry đã kết hôn với người mẫu Anh Nicole Merry. Anh sống cùng gia đình tại Hamstead, phía bắc London.

    Chống phân biệt chủng tộc

    Luis Aragones trở thành huấn luyện viên trưởng của Tây Ban Nha vào năm 2004. Trong một buổi tập luyện của đội tuyển một nhóm phóng viên Tây Ban Nha đã chộp được cảnh Aragones “khuyến khích” người đồng đội của Henry tại Arsenal - Jose Antonio Reyes theo cách rất lạ ( “Hãy chuyền bóng cho anh ta và chỉ cho tên da đen đê tiện đó thấy rằng anh giỏi hơn anh ta” ). Sự việc đã gây ra một làn sóng bất bình trong công chúng Anh yêu cầu Aragones phải bị sa thải. Khi đội Tây Ban Nha gặp Anh trong một trận đấu giao hữu tại Bernabéu cũng vào năm đó, nhóm cổ động viên đã có thái độ thù địch. Liên đoàn bóng đá Tây Ban Nha ( RFEF ) phạt HLV trưởng 3000 bảng. Sau khi điều tra UEFA quyết định phạt RFEF 100000 fanc Thuỵ Sĩ và cảnh cáo rằng những sự việc tương tự trong tương lai sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc hơn bằng cách cấm các cổ động viên Tây Ban Nha được đến sân cổ vũ đội nhà thi đấu trong những trận đấu quốc tế.

    Henry và hãng Nike đang cùng tiến hành chiến dịch “ Đứng lên nói thẳng” với nạn phân biệt chủng tộc trong bóng đá. Anh cũng là thành viên trong chiến dịch Joga Bonito của Nike và “Những người Bồ Đào Nha” vì vẻ đẹp của bóng đá.

    Chuyện bên lề

    - Henry thông thạo tiếng Pháp, Anh, Italia, và cả tiếng Antillean Creole (ngôn ngữ của quê hương bố mẹ anh).

    - Ngoài bóng đá, môn thể thao yêu thích của Henry là bóng rổ. Anh là một fan trung thành của San Antonio Spurs, một đội thuộc giải NBA.

    - Nổi tiếng với biệt danh "Con của thần gió", Henry chỉ cần từ 10,1s đến 10,5s để hoàn thành quãng đường 100m. Anh cũng có nhiều nickname khác: Titi, TH14, Va Va Voom, Tel.

    - 12-4-2006 Henry kí kết thoả thuận gia nhập Reebok trong chiến dịch “Tôi là tôi”được tiến hành vào 1-8-2006

    - Anh xuất hiện trong mục quảng cáo “Trận đấu bí mật của Nike” năm 2002, cùng đội với Hidetoshi Nakata và Francesco Totti, đánh đầu ghi bàn thắng quyết định sau khi nhảy lên lưng của Totti trước sự ngạc nhiên của Ronaldo, Figo và Roberto Carlos.

    - Xuất hiện trong mục quảng cáo Renault Clio trong suốt giai đoạn 2003-2005. Anh đã sáng tạo ra một từ va-va-voom có nghĩa là cuộc sống hay cảm xúc. Từ này sau đó đã được đưa vào trong từ điển tiếng Anh Oxford.

    - Trong suốt WC 2006 Henry là ngôi sao của show quảng cáo cho Pepsi Gold một nhãn hiệu của Pepsi mới được khai trương ở Thuỵ Sĩ, Iceland, Ai Cập, Romani và Lebanon.

    - Không cầu thủ Pháp nào từng vượt qua được số bàn thắng của Henry trong bất cứ kỳ WC nào anh từng tham gia: Anh ghi được 3 bàn tại France 98, không bàn nào tại WC 2002 (cả đội Pháp không ghi được một bàn thắng nào), và 3 bàn tại WC 2006.

    - Ngày 22-6-2006 Henry trở thành cầu thủ Arsenal đầu tiên ghi bàn trên sân vận động Erimates giúp Arsenal giành chiến thắng 2-1 trước Ajax trong trận đấu giã từ sự nghiệp cầu thủ của Dennis Bergkamp.

    - Trong mùa giải 2005-06 Thierry Henry ghi được 27 bàn thắng nhiều hơn cả tổng số bàn thắng mà Sunderland (26 bàn).

    - Anh có sở thích sưu tầm xe hơi thể thao và lâu đài cổ. Henry sở hữu một chiếc Mercedes-Benz_SLR_McLaren, Porsche_Carrera_GT và một chiếc Aston_Martin_Vanquish.

    Hiện anh đã chuyển sang Barca.


    Because The Main One

  7. #57
    Ngày tham gia
    01 Jul 2007
    Số bài viết
    1,178
    Karl Fredrik Ljungberg



    Họ và tên Karl Fredrik Ljungberg
    Sinh 1977-04-16
    Vittsjo
    Sweden
    Vị trí Attacking Middle Field - Tiền vệ công
    Số áo 8
    CLB Cũ Halmstads
    Gia nhập Arsenal 1998-09-17

    Anh là người đội trưởng tài hoa và là một mắt xích quan trọng không thể thiếu của ĐTQG Thuỵ Điển.

    Bước đệm

    Freddie bắt đầu sự ngiệp chơi bóng của mình từ năm mới 5 tuổi, cho đội trẻ tại clb Halmstads của Thuỵ Điển. Anh cũng đã từng chơi một số môn thể thao khác như khúc côn cầu (Hockey) hay bóng ném (Handball). Sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp của anh chính thức bắt đầu từ ngày 23/10/94 cho đội Halmstads khi tiếp AIK tại giải VĐQG Thuỵ Điển. Anh đã có 16 bàn thắng trong tổng số 139 lần ra quân và giúp Halmstads VĐ giải VĐQG, cúp QG trước khi về đầu quân cho đội bóng chủ sân Emirates.

    Sự nghiệp ở Arsenal

    Phải mất 3 triệu bảng Giáo sư mới có được chữ kí của anh vào năm 1998. Giáo sư của chúng ta đã bị thuyết phục hoàn toàn khi theo dõi màn trình diễn chói sáng của anh trong màu áo ĐTQG Thuỵ Điển khi tiếp đối thủ đến từ Đảo quốc sương mù (dù không phải là trực tiếp).

    Không lâu sau khi vượt qua cuộc kiểm tra y tế lần cuối cùng, Freddie đã có màn ra mắt ấn tượng trong màu áo Arsenal khi ghi bàn cho The Gunners từ ghế dự bị trong cuộc đón tiếp quỷ đỏ thành Manchester. Chính phong độ chói sáng của Freddie mà phần lớn đến từ hiệp hai đã giúp Ars lập cú đúp vào năm 2002. Trong lúc Pires bị chấn thương đầu gối và phải nghỉ gần một tháng, chính Freddie đã vào sân và ghi bàn trong phần lớn các trận đấu còn lại của mùa giải đó bao gồm cả cú dứt điểm hạ gục Chelsea tại trận CK cúp FA. Anh cũng luôn gây được sự chú ý của các cổ động viên bởi mái tóc đỏ rực của mình trước khi vào mùa WC cùng năm đó.

    Vị trí ưa thích của Freddie là tiền vệ cánh, hơi nhô lên, ngoài ra, anh có thể chơi tốt trong sơ đồ 4-5-1 hoặc chơi vị trí tiền đạo thứ hai.

    Từ sau sự ra đi của bộ đôi pháo thủ nổi tiếng Petit và Overmars, Freddie đã có cơ hội được ra sân nhiều hơn và một chỗ đứng vững chắc trong đội hình chính của The Gunners. Tuy nhiên, anh cũng phải chiến đấu với những chấn thương liên miên cùng với sự xuất hiện thường xuyên của căn bệnh đau nửa đầu quái ác.

    Năm 2005, những chấn thương có phần “bí ẩn” đã làm cho Freddie sợ rằng mình có thể sẽ nhiễm phải căn bệnh ung thư mà nguyên nhân chính là sự nhiễm độc máu, kết quả của những hình xăm vô tội vạ trên người anh, dĩ nhiên đó chỉ là những kết luận hồ đồ và vô căn cứ!

    Năm 2006, mặc dù bị chấn thương mắt cá chân khá nghiêm trọng, Freddie vẫn cố gắng thi đấu cho đội hình của các pháo thủ tại trận CK cúp C1 khi đón tiếp Barca tại Stard de France (trận đấu đáng ra The Gunners phải có một kết quả tốt hơn nếu không có những quyết định đầy phũ phàng và nghiệt ngã của trọng tài).

    Sự nghiệp quốc tế

    Ljungberg ra mắt ở đội U21 Thuỵ Điển. Lần đầu anh khoác áo đội tuyển quốc gia là vào 24/1/1998 trong trận đấu với đội tuyển Mĩ. Anh cũng được gọi vào đội tuyển ở Euro 2000, World Cup 2002, Euro 2004. Tại World Cup 2006, anh đã ghi bàn thắng thứ 13 cho đội tuyển vào phút 89 trong trận gặp Paragoay. Vào 8/8/2006, anh đã trở thành đội trưởng đội Thuỵ Điển thay cho Olof Mellberg.

    Đời tư

    - Anh là người mẫu quảng cáo đồ lót nổi tiếng của Calvin Klein.

    - Anh có biệt danh là Freddie ở Anh và Ljungan ở đội Thuỵ Điển.

    - Freddie có 1 cậu em trai tên là Filip.

    - Bạn gái của anh là ca sĩ và cựu thành viên của nhóm nhạc nổi tiếng Sclub7 - Rachel Stevens.

    - Anh sống ở Hampstead khi ở London và Halmstad khi ở Thuỵ Điển.

    Thi đấu chuyên nghiệp

    - Ghi 70 bàn trong 302 lần ra sân tại Highbury.
    - Với Halmstad: Swedish Cup 95
    Swedish league 97
    - Với Arsenal: Communty Shield: 97
    FA Premier league 01-02, 03-04
    FA Cup 02,03,05.


    Because The Main One

  8. #58
    Ngày tham gia
    01 Jul 2007
    Số bài viết
    1,178
    Nigel Winterburn



    Họ và tên: Nigel Winterburn
    Sinh: 1963-12-11
    Arley
    Warwickshire
    England
    Vị trí: Left back – Hậu vệ cánh trái

    Câu lạc bộ cũ
    Năm CLB Trận ( Số bàn thắng)
    1981-1982 Birmingham City 0 (0)
    1982-1983 Oxford United 0 (0)
    1983-1987 Wimbledon 165 (8)
    1987-2000 Arsenal 440 (8)
    2000-2003 West Ham United 82 (1)

    Tại đội tuyển quốc gia
    1990–1991 Anh B 3(0)
    1990–1993 Anh 2 (0)


    Nigel Winterburn, một cầu thủ bóng đá người Anh, là một trong bộ tứ vệ huyền thoại cuối thập kỷ 80 và trong thập kỷ 90 của Arsenal. Hiện nay ông đã giải nghệ.

    Đá hậu vệ trái, Winterburn bắt đầu sự nghiệp chơi bóng của mình tại Clb Birmingham City. Mặc dù đã từng được gọi vào đội trẻ của tuyển Anh, nhưng ông chưa từng được đưa vào đội hình chính thức tại Clb. Ông chuyển sang chơi cho Clb Oxford United, sau đó vào năm 1983, ông được Dave Bassett đưa về gia nhập đội bóng Wimbledon (đội bóng "nổi danh" với cái tên Crazy Gang) theo hình thức chuyển nhượng tự do, đội bóng này vẫn đang tiếp tục những bước tiến vững chắc trên con đường thăng hạng sau khi đạt được những thành công từ giải non-league (giải phong trào) 6 năm trước. Winterburn được xem là nguồn sức mạnh tinh thần rất lớn của Wimbledon và ông cũng dành được những danh hiệu ở đội U21 Anh.

    Winterburn là thành viên năng nổ trong đội hình tiêu biểu đã dành quyền lên chơi ở giải hạng Nhất năm 1986. Đội hình này gồm có những cầu thủ giàu kinh nghiệm như John Fashanu và Lawrie Sanchez. Trong mùa giải đầu tiên của họ ở giải đấu danh giá, họ đã về đích ở vị trí nửa trên của bảng xếp hạng, vào đến tứ kết cúp FA, và chỉ chịu thua Tottenham Hotspur, đội đã vào chung kết.

    Trong 4 mùa giải chơi tại sân Plough Lane, Winterburn đã từng được các cổ động viên bầu cho danh hiệu cầu thủ của năm, thành tích tuyệt vời của ông đã khiến cho huấn luyện viên của Arsenal, George Graham – người đang tìm kiếm cầu thủ có thể thay thế lâu dài cho đội trưởng Kenny Sansom – đặc biệt quan tâm.

    Vào mùa hè năm 1987, Arsenal đã chi 350,000 bảng cho Wimbledon để đưa Winterburn về sân Highbury. Ông đã không cạnh tranh được vị trí với Sansom, cầu thủ trụ cột của đội tuyển Anh. Lần đầu tiên được ra sân, ông xuất hiện bên cánh phải của đội bóng, một phương pháp thay thế mang tính bắt buộc của Graham sau khi vị huấn luyện viên này không thành công trong việc tìm cầu thủ xứng đáng để thay thế cho Viv Anderson.

    Mặc dù thuận chân trái, nhưng Winterburn đã đảm nhiệm bên cánh phải bằng hết khả năng của mình. Tuy nhiên ông sớm liên quan đến 2 sự kiện gây nhiều tranh cãi ở mùa giải đầu tiên của mình. Vụ việc đầu tiên xảy ra trong 1 trận đấu tại cúp FA trên sân vận động Highbury, ông đã công khai trêu tức tiền đạo của Manchester United là Brian McClair sau khi cầu thủ này bỏ lỡ quả penalty. Chuyện này đã gây nên làn sóng chỉ trích Winterburn vào thời điểm đó

    Vụ việc thứ hai xảy ra trong trận chung kết cúp Liên Đoàn cuối mùa giải đó. Mặc dù bị dẫn trước từ khá sớm, nhưng Arsenal đã chiếm lĩnh thế trận và dẫn trước Luton Town 2-1 trên sân Wembley. Khi thời gian chỉ còn chưa đầy 15 phút nữa là hết giờ thì David Rocastle đã ngã trong vòng cấm địa của đội Luton. Michael Thomas là cầu thủ được chỉ định thực hiện đá phạt đền cho Arsenal trong phần lớn mùa giải nhưng không thể giải thích lý do tại sao, Winterburn lại là người đặt bóng vào chấm phạt đền. Ông chưa từng đá phạt đền cho Arsenal bao giờ, bình luận viên Brian Moore đã vô cùng ngạc nhiên – "Đây đúng là một quyết định kỳ lạ!" – và Winterburn đã bước lên chấm phạt đền.

    Ông đá mạnh vào góc phải phía dưới khung thành, nhưng thủ môn đội Luton, Andy Dibble đã đoán chính xác hướng bóng và đẩy bóng ra ngoài sát cột dọc. Nếu như Winterburn ghi bàn, Arsenal gần như chắc chắn sẽ dành chiến thắng với tỷ số 3-1. Thay vì vậy, Luton đã thi đấu đầy nỗ lực và đã có hai bàn thắng trong 10 phút cuối trận, dành chức vô địch. Dù đá hỏng quả penalty, nhưng Winterburn – người chịu chỉ trích nhiều nhất – cũng không mắc sai lầm như Gus Caesar (người thay thế cho David O'Leary, không thể tham gia trận chung kết do chấn thương) khi cầu thủ này phá bóng trượt tạo cơ hội cho Luton cân bằng tỷ số 2-2.

    Hậu vệ Sansom rời Arsenal vào mùa hè và kết quả là Winterburn được chuyển sang chơi với vai trò hậu vệ cánh trái quen thuộc, và ông đã đá ở vị trí này trong hơn 1 thập kỷ. Ông và người đồng đội Lee Dixon bảo vệ vững chắc 2 bên cánh, cùng với đội trưởng Tony Adams và cầu thủ kỳ cựu David O'Leary cũng như Steve Bould – đến Arsenal trong mùa giải 1989 - là những hậu vệ xuất sắc. Thường thì huấn luyện viên sẽ sử dụng cả năm cầu thủ khi Arsenal gặp đội đầu bảng Liverpool ở trận đấu cuối cùng của mùa giải, trận đấu quyết định chức vô địch giải hạng Nhất (nay là giải Ngoại hạng) trên sân Anfield. Ngôi vị vô địch gần nhất mà các cầu thủ Arsenal dành được là cú đúp năm 1971.

    Tình hình của Arsenal buộc họ phải dành chiến thắng 2 bàn cách biệt thì mới có thể dành chức vô địch. Pha sút phạt của Winterburn đã đã tạo điều kiện cho Alan Smith ghi bàn thắng mở tỷ số nhanh chóng sau khi hiệp hai bắt đầu, bàn thắng thứ hai được thực hiện khi Thomas thoát xuống giữa sự kèm cặp của hàng hậu vệ Liverpool, nhận bóng từ đồng đội và ghi bàn ở những phút bù giờ, cổ động viên của Arsenal vỡ oà trong sự vui sướng.

    Cuối năm đó, Winterburn lần đầu tiên được xuất hiện trong màu áo đội tuyển Anh, ông được thay vào sân trong trận gặp Italia khi tỷ số đang hoà 0-0. Mặc dù nhiều phương tiện thông tin đại chúng cũng như huấn luyện viên của Arsenal thường xuyên ca ngợi những ưu điểm của hậu vệ cánh trái người Anh này nhưng huấn luyện viên đội tuyển Anh, ông Bobby Robson, chỉ xem Nigel là sự lựa chọn thứ 3 ở vị trí hậu vệ trái tại World Cup 90, sau Stuart Pearce và Tony Dorigo. Chỉ khi có chấn thương mới có cơ hội vào sân cho Winterburn, nhưng điều đó đã không xảy ra. Tuy nhiên ông đã được ra sân trong đội hình B.

    Arsenal kết thúc mùa giải 1990 mà không có danh hiệu nào,nhưng Winterburn và những đồng đội của ông ở hàng phòng ngự - giờ đã được tăng cường khi có thêm thủ môn David Seaman mới chuyển tới – đã tái khẳng định khả năng phòng ngự chắc chắn của họ khi đoạt lại được chứ vô địch với chỉ một trận thua duy nhất ở mùa giải tiếp theo. Hai năm sau, Winterburn đã dành được cú đúp với Arsenal và đã hoàn tất bộ sưu tập huy chương ở giải trong nước của mình. Arsenal đánh bại Sheffield Wednesday 2-1 ở cả 2 trận chung kết cúp Liên Đoàn và cúp FA, trận chung kết FA đá lại do hai đội hoà 1-1.

    Phong độ của Winterburn đã khiến cho huấn luyện viên đội tuyển Anh Graham Taylor gọi ông trở lại đội tuyển trong giải đấu được tổ chức ở Mỹ, giải đấu mà đội Anh đã không thành công khi để thua đội chủ nhà 2-0. Winterburn được ra sân để thay thế cho cầu thủ chạy cánh của đội Manchester United Lee Sharpe trong trận cuối cùng gặp đội tuyển Đức.

    Năm 1994, giới chuyên môn về bóng đá đã bày tỏ sự đánh giá rất cao Winterburn và các đồng đội của ông ở hàng phòng ngự của Arsenal sau khi họ kèm cặp được bộ ba tấn công rất xuất sắc người Ý bên phía Parma là Faustino Asprilla, Tomas Brolin và Gianfranco Zola. Họ đã bảo vệ được kết quả 1-0 sau khi Smith giúp Arsenal vượt lên dẫn trước ở phút thứ 20. Họ đã thi đấu với sự tự tin và dành được chiếc cúp C2, đây là thành công đầu tiên của Arsenal tại đấu trường châu lục trong một phần tư thế kỷ. Họ không gặp nhiều may mắn trong mùa tiếp theo, khi họ vào đến trận chung kết. Trong trận chung kết cúp C2 ngay năm sau đó gặp đội Real Zaragoza, trận đấu đang có tỷ số hoà 1-1 và mọi người đã nghĩ đến những loạt đá penalty, thì Nayim (cầu thủ cũ của Tottenham, đối thủ không đội trời chung của Arsenal) bằng một cú sút bóng từ vạch giữa sân đã ghi bàn thắng ở thời gian đá hiệp phụ, đem về chức vô địch cho Real Zaragoza ở ngay phút cuối cùng.

    Arsène Wenger đến dẫn dắt Arsenal vào cuối năm 1996 và ông đã truyền cảm hứng mới vào đội bóng Arsenal, sử dụng hàng hậu vệ đã có tuổi (Adams đã 30 tuổi nhưng là cầu thủ trẻ nhất; Martin Keown cũng chuyển tới để thay thế cho O'Leary, giải nghệ sau thành công ở FA cúp năm 1993), giúp họ tiếp tục chơi bóng và dành được một số thành công trong những năm sau đó. Với 6 sáu cầu thủ kinh nghiệm ở hàng phòng ngự sử dụng tiếng bản xứ, những cầu thủ tài năng mới chuyển đến đã được giúp đỡ để sớm hoà nhập với đội bóng, Arsenal dành cú đúp vào năm 1998, vô địch giải ngoại hạng và cúp FA. Winterburn được huấn luyện viên tạm quyền, Howard Wilkinson gọi trở lại đội tuyển Anh trong trận đá giao hữu với Pháp năm 1999 nhưng ông không có tên trong đội hình chính thức của Wilkinson, cả Seaman, Adams, Keown và Dixon đều được đá chính nhưng Winterburn đã không cạnh tranh được với Graeme Le Saux ở vị trí hậu vệ trái và phải ngồi trên băng ghế dự bị, kết quả đội Anh bị thua với tỷ số 2-0.

    Vào năm 2000, Arsenal tiến tới trận chung kết UEFA Cup nhưng Winterburn đã không có được xuất chính thức trong đội khi vị trí hậu vệ cánh trái được trao cho cầu thủ người Braxin Silvinho. Sau đó ông dần dần bị cầu thủ trẻ Ashley Cole thay thế trong vòng 12 tháng tiếp theo. Mặc dù sự nghiệp lừng lẫy tại Arsenal đã kết thúc nhưng sẽ khó có ai sánh ngang được với những thành tích của Winterburn.

    Winterburn chuyển sang chơi cho West Ham United sau 429 trận thi đấu dưới màu áo Arsenal ở giải ngoại hạng (ghi được 8 bàn thắng – trong đó có một số bàn thắng ngoạn mục được ghi từ ngoài vòng cấm địa). Ông đã chơi 3 mùa giải cuối cùng của sự nghiệp cầu thủ tại Upton Park trước khi giải nghệ ở tuổi 40. Hiện nay ông làm bình luận viên cho các trận đấu. Winterburn được các cổ động viên của Arsenal đặt cho biệt danh trìu mến là 'sóc điên'.

    Winterburn hiện nay đã giải nghệ và về sống ở Weston Turville, gần Aylesbury, Bucks với vợ và 3 đứa con.


    Because The Main One

  9. #59
    Ngày tham gia
    01 Jul 2007
    Số bài viết
    1,178
    Ray Parlour



    Họ và tên: Raymond Parlour
    Sinh: 1973-3-7
    Romford
    England
    Chiều cao: 1.78m
    Vị trí: Midfielder – Tiền vệ

    Sự nghiệp tại Clb
    Clb hiện tại: không
    Đội trẻ
    1989-1992 Arsenal
    Đội 1
    Năm Clb Trận (Số bàn thắng)
    1992-2004 Arsenal 339 (22)
    2004-2007 Middlesbrough 46 (0)
    2007 Hull City 15 (0)

    Tại đội tuyển quốc gia
    1992-1994 đội U21 Anh 12 (0)
    1998 Anh B 1 (0)
    1999-2000 Anh 10 (0)


    Raymond "Ray" Parlour là cựu cầu thủ quốc tế người Anh. Hiện nay anh không thi đấu cho Clb nào sau khi rời Hull City, trước đây anh thi đấu cho Arsenal và Middlesbrough. Khi còn chơi ở Arsenal, anh được mọi người gọi là " Pelé ở Romford "; tuy rằng biệt danh này chỉ được gọi một cách hài hước vì có thành tích xuất sắc nhưng anh không phải là người có vẻ đẹp mê hồn. Tuy nhiên anh cũng được xem như là một người hùng thầm lặng và chiếm được nhiều sự mến mộ của cổ động viên vì anh luôn thi đấu rất tích cực.


    Sự nghiệp cầu thủ

    Quãng thời gian thành công nhất của Parlour là khi anh còn ở Arsenal, nơi anh đã chơi trong 14 năm. Parlour gia nhập Arsenal trong vai trò cầu thủ tập sự vào năm 1989, và được ra sân lần đầu tiên dưới màu áo của các Pháo thủ trong trận gặp Liverpool vào ngày 29 tháng 1 năm 1992, trận đấu mà đội anh đã bị thua 2-0 trong đó có một quả penalty. Parlour liên tục chứng tỏ mình là một cầu thủ có tài trong một vài năm tiếp theo. Anh bị chú ý nhiều hơn vì một vài vấn đề về kỷ luật (như là cuộc cãi nhau với một người lái taxi ở Hồng Kông trong một chuyến du lịch). Tuy nhiên, trong thời gian này anh đã được ra sân dưới màu áo của đội U21 Anh 12 trận.

    Anh chính thức được thi đấu nhiều hơn là vào mùa giải 1994-1995, và đã chơi trong trận chung kết cúp C2 ở mùa giải này, trận đấu mà Arsenal đã để thua Real Zaragoza (anh đã không được ra sân trong trận các Pháo thủ dành chiến thắng 1-0 trước Parma ở mùa giải trước). Tuy nhiên, Parlour chỉ thực sự phát huy được khả năng của mình khi Arsène Wenger lên làm huấn luyện viên năm 1996; anh đã được ra sân thường xuyên hơn ở bên cánh phải hay ở vị trí tiền vệ trung tâm của Arsenal. Mùa giải 1997-1998 Arsenal dành cú đúp và Parlour đã có công rất lớn với đội bóng. Anh là cầu thủ hay nhất trận chung kết cúp FA ở mùa giải đó khi các Pháo thủ dành chiến thắng trước đội Newcastle United; anh đã tạo cơ hội cho Nicolas Anelka có bàn thắng ấn định tỷ số 2-0 cho Arsenal. Tuy nhiên, anh đã không được góp mặt ở World Cup 1998 mùa hè đó (huấn luyện viên đội tuyển Anh, ông Glenn Hoddle đã sử dụng cầu thủ của Spurs là Darren Anderton).

    Parlour cuối cùng cũng được ra sân trong màu áo tuyển Anh khi anh được vào sân thay người trong trận vòng loại Euro 2000 gặp Ba Lan ngày 27 tháng 3 năm 1999. Anh được ra sân 10 trận ở đội tuyển quốc gia nhưng chưa có bàn thắng nào; trận gần đây nhất của anh trong đội tuyển ở một giải đấu là trận vòng loại World Cup 2002 gặp đội Phần Lan ngày 11 tháng 10 năm 2000. Cú sút từ khoảng cách 30 yard của Parlour đã đập trúng xà ngang dội xuống và bóng đã vượt qua vạch vôi nhưng lại không được trọng tài biên công nhận bàn thắng; trận đấu kết thúc với tỷ số 0-0. Parlour đã không được góp mặt trong bất kỳ một vòng chung kết nào; chấn thương đầu gối khiến anh không thể tham gia cùng đội tuyển Anh ở Euro 2000. Trận cuối cùng anh ra sân trong màu áo đội tuyển Anh là trận giao hữu gặp đội Ý ngày 15 tháng 11 năm 2000. Parlour từng được gọi vào đội tuyển Anh vài lần khi ông Sven-Göran Eriksson lên làm huấn luyện viên, nhưng anh chưa bao giờ được vào sân dưới thời ông huấn luyện viên người Thuỵ Điển này.

    Parlour tiếp tục có được thành công với Arsenal trong 4 năm tiếp theo (dành được 1 cú đúp nữa vào năm 2002), nhưng anh không nhận được nhiều sự ca ngợi của giới truyền thông như các đồng đội nổi tiếng của anh ở Arsenal, đặc biệt là anh hoàn toàn sống dưới cái bóng của Patrick Vieira trong suốt thời gian ở Clb. Cuối cùng thì anh cũng dành được sự chú ý đặc biệt của mọi người với một cú sút mở tỷ số từ khoảng cách 30 yard( hơn 27 mét) trong trận chung kết cúp FA năm 2002 gặp đối thủ Chelsea, một bàn thắng tuyệt vời khiến cho Tim Lovejoy ở Soccer AM – một chương trình về bóng đá phát vào sáng thứ bảy ở Anh - phải thốt lên "Đừng bận tâm, đó chỉ có thể là Ray Parlour"; Arsenal dành chiến thắng 2-0, với bàn thắng thứ hai của Fredrik Ljungberg. Với Arsenal, Parlour dành được tất cả 3 danh hiệu vô địch giải ngoại hạng, 4 chiếc cúp FA, 1 cúp Liên đoàn và 1 cúp C2, thi đấu 464 trận và ghi 32 bàn thắng trên tất cả các mặt trận.

    Mặc dù không phải là một cầu thủ cực kỳ quyễn rũ, nhưng Parlour có một khả năng phi thường khi đánh bại đối phương một cách ngoạn mục. Tháng 3 năm 2000, anh đã có một hattrick trong chiến thắng 4-2 ngay trên sân khách khi Arsenal gặp Werder Bremen trong trận tứ kết cúp UEFA. Chín tháng sau, anh tiếp tục có một cú hattrick nữa trong chiến thắng 5-0 đè bẹp đội Newcastle United tại Highbury. Tháng 4 2001, anh có một pha ghi bàn ngoạn mục từ khoảng cách 30 yard ( hơn 27 mét) khi Arsenal đánh bại Valencia 2-1 trong trận lượt đi tứ kết cúp C1 Châu Âu tại Highbury. Những khoảnh khắc tuyệt vời khác mà anh có được trong màu áo Arsenal là vào tháng 11 năm 2003, khi anh được đeo băng đội trưởng, anh đã dẫn dắt Arsenal có được chiến thắng lịch sử 5-1 trước Inter Milan ngay tại San Siro. Điều này khiến cho nhiều chuyên gia tin tưởng rằng anh là một trong những cầu thủ được đánh giá cao nhất trong số những cầu thủ cùng lứa với anh.

    Mặc dù chuyển tới Middlesbrough vào mùa hè năm 2004, nhưng anh vẫn còn được rất nhiều cổ động viên của Arsenal yêu quý. Anh ra sân 60 trận dưới màu áo Boro trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi. Anh đã không được ra sân trong trận chung kết cúp UEFA năm 2006 khi Middlesbrough đối đầu với Sevilla, ở trận này họ đã bị thua với tỷ số 4-0. Parlour đã kết thúc bản hợp đồng của mình vào ngày 25 tháng 1 năm 2007 và anh có một thời gian ngắn tập luyện cùng với đội bóng cũ Arsenal để phục hồi thể lực trước khi tìm một Clb mới.

    Ngày mùng 9 tháng 2 năm 2007 anh ký 1 bản hợp đồng với Hull City có thời hạn đến hết mùa bóng 2006-2007. Sau khi giúp cho Hull City trụ hạng, vào ngày mùng 1 tháng 6 đội bóng đã không đề nghị một bản hợp đồng mới với Ray Parlour, điều này có nghĩa là anh đã kết thúc bản hợp đồng của mình.

    Vụ ly dị

    Parlour cưới vợ, cô Karen vào năm 1998; họ có 3 đứa con trước khi ly thân năm 2001. Tháng 7 năm 2004, họ đã đồng ý ly dị sau khi toà quyết định Karen Parlour sẽ được sở hữu 2 ngôi nhà và một khoản tiền là 250,000 bảng nhưng vẫn còn một vấn đề tồn tại chưa được giải quyết. Ray Parlour đã đưa cho Karen 120,000 bảng để đáp ứng những nhu cầu cần thiết cho những đứa con của họ, nhưng cô muốn nhiều hơn thế. Ban đầu toà án quyết định Karen sẽ nhận được 250,000 bảng một năm, nhưng cả hai bên đã không hài lòng với điều này và họ đã chống án.

    Toà án phúc thẩm đã quyết định tăng số tiền mà Karen sẽ được nhận lên 406,500 bảng để cô có thể bỏ ra 250,000 bảng mỗi năm dành dụm nguồn vốn cho chính mình. Trường hợp này đã khiến cho giới truyền thông suy đoán rằng những vụ ly dị trong tương lai sẽ đem lại cho mọi người một khoản tiền được chia công bằng hơn từ số tiền kiếm được trong tương lai của người chồng (vợ) cũ của họ, và một việc làm hợp lý ngày càng gia tăng về sự thoả thuận trước hôn nhân.

    Danh hiệu

    Với Arsenal
    Vô địch giải ngoại hạng năm 1998, 2002, 2004
    Vô địch FA Cup năm 1993, 1998, 2002, 2003; Á quân năm 2001
    Vô địch League Cup năm 1993
    Vô địch cúp C2 Châu Âu năm 1994; Á quân năm 1995
    Á quân UEFA Cup năm 2000

    Với Middlesbrough
    Á quân UEFA Cup năm 2006

    Với đội U21 Anh
    Vô địch giải Toulon năm 1994


    Because The Main One

  10. #60
    Ngày tham gia
    01 Jul 2007
    Số bài viết
    1,178
    David Seaman



    Họ và tên: David Andrew Seaman
    Sinh: 19-9-1963
    Rotherham
    England
    Chiều cao: 1.93m
    Vị trí: Goalkeeper – Thủ môn

    Đội trẻ
    1981-1982 Leeds United
    Đội 1
    Năm CLB Trận (Số bàn thắng)
    1982-1984 Peterborough United 91 (0)
    1984-1986 Birmingham City 75 (0)
    1986-1990 Queens Park Rangers 141 (0)
    1990-2003 Arsenal 405 (0)
    2003-2004 Manchester City 19 (0)

    Đội tuyển quốc gia
    1987-1992 Anh B 6(0)
    1988-2002 Anh 75 (0)


    David Andrew Seaman sinh ngày 19 tháng 9 năm 1963 tại Rotherham, miền nam Yorkshire. Anh là cựu thủ môn người Anh, đã chơi cho một số Clb, đáng kể nhất là Clb Arsenal và gần đây nhất là Clb Manchester City. Anh giải nghệ sau trận đấu vào ngày 13 tháng 1 năm 2004, sau khi liên tục gặp phải chấn thương ở vai. Anh đã được nhận giải thưởng MBE năm 1997 vì những đóng góp cho thể thao.

    Đỉnh cao trong sự nghiệp của anh là giai đoạn anh làm thủ môn cho Arsenal và đội tuyển Anh trong thập kỷ 90 và những năm đầu thập kỷ 2000. Trong suốt thời gian thi đấu tại Arsenal anh dành được nhiều danh hiệu bao gồm 3 chức vô địch giải ngoại hạng (1991, 1998, 2002), 4 chiếc cúp FA (1993, 1998, 2002, 2003), 1 cúp Liên đoàn (1993) và 1 cúp C2 Châu Âu (1994). Trong thời gian này, anh cũng tham gia tại đội tuyển quốc gia ở World Cup 98, World Cup 2002, Euro 96 và Euro 2000. Anh được ra sân trong 75 trận và chỉ xếp sau thủ môn Peter Shilton về số lần được thi đấu dưới màu áo đội tuyển Anh.

    Khởi nghiệp

    David Seaman khởi nghiệp với tư cách là một cầu thủ học việc tại Leeds United. Tuy nhiên, thật đáng thất vọng với anh, anh đã không nhận được một sự chú ý nào từ huấn luyện viên Eddie Gray, người mà anh rất ngưỡng mộ. Seaman đã chuyển tới Clb chơi ở giải hạng 4 Peterborough United với mức phí chuyển nhượng là 4,000 bảng vào tháng 8 năm 1982, nơi mà anh bắt đầu tạo dựng nên tên tuổi của mình.

    Chỉ hơn 2 năm sau, tháng 10 năm 1984, đội bóng ở giải hạng 2 Birmingham City đã chi trả 100,000 bảng để có được sự phục vụ của Seaman. Họ đã kết thúc mùa giải với kết quả được lên chơi ở giải hạng Nhất (nay là giải ngoại hạng), nhưng đã lại bị xuống hạng cuối mùa giải sau đó. Tuy nhiên, Seaman đã không cùng đội bóng quay trở lại giải hạng 2.

    Tháng 8 năm 1986, chỉ một tháng sau sinh nhật đứa con trai thứ 2 Thomas, David Seaman chuyển tới Q.P.R. với mức phí 225,000 bảng. Được chơi trong một đội bóng có tiếng tăm hơn, trên một mặt sân mềm mại hơn, lần đầu tiên anh được ra sân trong màu áo đội tuyển Anh, được dẫn dắt bởi Bobby Robson trong một trận đấu giao hữu gặp Arập Xêút tháng 11 năm 1988. Trong thời gian ở Q.P.R., Seaman được huấn luyện bởi huấn luyên viên thủ môn ông Bob Wilson – ông chính là huấn luyện viên thủ môn của Arsenal giai đoạn đội bóng dành được cú đúp năm 1971 – người mà đã làm việc cùng anh hơn 1 thập kỷ.


    Sự nghiệp tại Arsenal giai đoạn từ 1990-2003

    Năm 1990, rất lâu trước khi phương thức kỳ chuyển nhượng hiện nay được áp dụng vào các giải bóng đá ở Anh quốc, thời hạn cuối cùng của kỳ chuyển nhượng vẫn là một vài tuần trước khi kết thúc mùa giải. Arsenal, đội bóng đã dành chức vô địch năm 1989, muốn ký hợp đồng với Seaman, nhưng điều này sẽ khiến cho thủ môn của Arsenal là John Lukic đối mặt với tương lai sẽ bị cho Clb khác mượn. Lukic không muốn điều này xảy ra, và việc này đã bị huỷ bỏ, nhưng vẫn còn một vấn đề chưa được giải quyết khi thời hạn cuối cùng đã trôi qua. Ngay khi mùa giải kết thúc, Clb không được quyền mua cầu thủ nữa, huấn luyện viên của Arsenal George Graham đã quay lại thương lượng bản hợp đồng với Seaman, đồng ý với mức phí chuyển nhượng là 1.3 triệu bảng (đây là kỷ lục chuyển nhượng thủ môn tại Anh vào thời điểm đó). Lukic, người được rất nhiều cổ động viên Arsenal mến mộ đã phải chuyển sang Leeds.

    Trước khi được ra sân lần đầu tiên trong màu áo Arsenal, Seaman đã được huấn luyện viên đội tuyển Anh Bobby Robson lựa chọn là thủ môn dự bị cho Peter Shilton tại World Cup 1990, nhưng sau khi đến Ý anh đã phải rút tên khỏi đội tuyển do gặp chấn thương.

    Quãng thời gian Seaman ở Arsenal cũng là lúc mà Clb có nhiều thành công nhất trong lịch sử của mình. Mùa giải đầu tiên, Seaman chỉ để lọt lưới 18 bàn (chơi tất cả 38 trận của mùa giải) và Arsenal dành lại chức vô địch. Tuy nhiên, năm 1992, Seaman đã không được Graham Taylor gọi vào đội tuyển Anh dự Euro 92, vinh dự này được trao cho Chris Woods và Nigel Martyn.

    Năm 1993, Arsenal dành được cả 2 chiếc cúp FA và cúp Liên đoàn và được bổ sung thêm vào năm này sau đó là chiếc cúp C2 Châu Âu. Ngay trước khi anh có được thành công ở đấu trường châu lục, Terry Venables đã được chỉ định là huấn luyện viên trưởng đội tuyển Anh thay thế người tiền nhiệm Taylor sau khi ông này không thành công ở vòng loại World Cup. Venables đã đưa Seaman vào vị trí thủ môn chính thức và anh liên tục là thành viên của đội tuyển Anh cho đến năm 2002.

    Năm 1995, George Graham bị sa thải, khi Arsenal sắp trở thành đội bóng đầu tiên bảo vệ được chức vô địch C2, Seaman trở nên nổi tiếng là chuyên gia bắt phạt đền sau khi chặn được cú sút của Attilio Lombardo trong loạt đá phạt đền ở trận bán kết Arsenal gặp U.C. Sampdoria. Tuy nhiên , ở trận chung kết Arsenal đã để thua Real Zaragoza trong thời gian đá hiệp phụ, với một bàn thắng ngoạn mục của Nayim từ khoảng cách hơn 41 mét vượt ra ngoài tầm với của Seaman.

    Seaman sớm để lại sau lưng lỗi lầm từ pha ghi bàn của Nayim, bằng những đóng góp to lớn của mình vào đội tuyển Anh tại Euro 96 của Venables. Seaman chặn được hai pha sút phạt penalty trong giải đấu. Pha sút đầu tiên là của cầu thủ Scotland Gary McAllister trong trận đấu vòng bảng, khi Anh đang dẫn trước 1-0 (chẳng bao lâu sau, Paul Gascoigne ghi bàn nâng tỷ số lên 2-0). Pha cứu nguy thứ hai là trong trận Anh gặp Tây Ban Nha ở tứ kết, Seaman bắt được cú sút của Miguel Angel Nadal khiến đội Tây Ban Nha bị loại. Nhưng cuối cùng, đội Anh đã bị loại ở bán kết. Seaman đã trở nên nổi tiếng, anh cùng với cầu thủ đạt danh hiệu chiếc giầy vàng Alan Shearer và tiền vệ cánh Steve McManaman được nằm trong đội hình tiêu biểu do UEFA bình chọn. Philips, nhà tài trợ cho Euro 96 đã bầu chọn anh là cầu thủ hay nhất giải.

    Tháng 8 năm 1996, Arsène Wenger trở thành huấn luyện viên trưởng mới của Arsenal. Ông đánh giá rất cao Seaman, năm 1998, Seaman đã giúp đội bóng có được cú đúp, vô địch giải ngoại hạng và đoạt cúp FA. Phong độ của anh đã giúp cho anh có được một xuất trong đội tuyển Anh của Glenn Hoddle dự World Cup 98 ở Pháp. Đội Anh đã thua trên chấm phạt đền trước đội Áchentina.

    Trong mùa giải 1998-1999, Seaman đã chơi tất cả 38 trận và chỉ để lọt lưới 17 bàn ở giải ngoại hạng, một kỷ lục của Clb cho tới thời điểm này, mặc dù Arsenal đã để tuột chức vô địch giải ngoại hạng và cúp FA vào tay Manchester United. Mùa giải sau đó, Seaman đã thành công khi tiến tới trận chung kết cúp UEFA năm 2000, trận đấu Arsenal đã hoà 0-0 với Galatasaray, nhưng lại để thua ở loạt sút luân lưu. Anh được gọi vào đội tuyển dưới thời Kevin Keegan tham dự Euro 2000, nhưng đã gặp chấn thương khi tập các bài tập khởi động trước trận đấu thứ 3 gặp Rumani. Nigel Martyn được thay thế nhưng đã thi đấu không thành công, và pha phạm lỗi vụng về của Phil Neville cuối trận đấu đó đã biếu cho đội Rumani một quả penalty, Martyn không thể chặn được cú sút đó. Kết quả là đội Anh đã bị thua và bị loại ngay ở vòng đầu tiên.

    Năm 2002, Seaman dành được chức vô địch giải ngoại hạng và chiếc cúp FA một lần nữa, hoàn tất cú đúp thứ hai trong sự nghiệp, mặc dù hai thủ môn khác của Arsenal là Stuart Taylor và Richard Wright cũng dành được những danh hiệu nhưng chủ yếu chỉ được vào sân khi Seaman không thể thi đấu do chấn thương. Seaman là thành viên trong đội bóng tham dự World Cup 2002 của huấn luyện viên Sven-Göran Eriksson, và đã thi đấu trong tất cả các trận tới khi đội Anh lọt vào tứ kết. Chuyển sang chơi lối đá tấn công ở hiệp hai, đội tuyển Anh đã loại đội bóng tinh quái Áchentina 1-0 ở vòng bảng sau khi đội trưởng David Beckham ghi bàn thắng từ chấm phạt đền. Tuy nhiên, trong trận tứ kết gặp đối thủ Brazil, Seaman đã bắt trượt pha sút phạt vòng cung của Ronaldinho khiến đội Anh bị thua 2-1; anh đã tự trách mình vì sai lầm này.

    Kết quả dẫn đến những tranh luận xem Seaman có nên là sự lựa chọn số một ở đội tuyển Anh nữa hay không. Anh tiếp tục được ra sân trong màu áo đội tuyển Anh cho tới tận vòng đấu loại Euro 2004 vào tháng 10 năm 2002 gặp Macedonia. Trong trận này, anh đã để bị ghi bàn từ pha đá phạt góc của Artim Sakiri trong trận hoà 2-2, và đã khiến giới báo chí chỉ trích rất nhiều. Đấy là lần cuối cùng Seaman xuất hiện trong màu áo đội tuyển quốc gia, khi Eriksson gạt anh ra và thay vào đó là David James.

    Cho dù sự nghiệp thi đấu quốc tế đã kết thúc khá bình lặng và có những chê trách về khả năng di chuyển không còn linh hoạt vào độ tuổi đó của mình, nhưng mùa giải 2002-2003 – mùa giải cuối cùng của Seaman tại Arsenal – đã kết thúc một cách đáng nhớ. Ở cúp FA, Anh đã có pha cứu bóng ngoạn mục sau cú sút của cầu thủ Sheffield United Paul Peschisolido trong trận bán kết khiến cho cựu thủ môn của Manchester United Peter Schmeichel, bình luận viên của BBC trong ngày đã phải thốt lên "đó là pha bắt bóng xuất sắc nhất mà tôi từng chứng kiến". Arsenal đã bảo vệ được tỷ số 1-0 khi thời gian còn lại của trận đấu chỉ còn khoảng 10 phút, cú đánh đầu của Peschisolido từ khoảng cách hơn 5 mét về phía khung thành khi mà Seaman lại đang đứng gần cột dọc. Tuy nhiên, anh đã bay người ngang khung thành, bằng một nỗ lực giang cánh tay phải về phía sau chặn bóng lại và đẩy bóng khỏi khung thành khi mà cầu thủ của đối phương sẵn sàng lao vào khi bóng bị bật ra. Seaman tiếp tục là đội trưởng của đội trong trận chung kết khi Patrick Vieira bị vắng mặt do chấn thương và giữ sạch lưới khi Arsenal đánh bại Southampton 1-0 trên sân vận động Thiên niên kỷ. Công lao cuối cùng của anh đã giúp Arsenal nâng cao chiếc cúp FA, và đó là danh hiệu cao quý thứ tám anh dành được với đội bóng. Seaman là thủ môn được ra sân nhiều trận nhất dưới màu áo Arsenal, và là người thứ hai sau Ray Parlour về số lần được ra sân ở giải ngoại hạng, với 325 trận.

    Chuyển sang Manchester City

    Seaman chuyển sang đội bóng của Kevin Keegan Manchester City theo hình thức chuyển nhượng tự do vào tháng 6 năm 2003, nhưng sự nghiệp của anh tại đây không kéo dài lâu. Trong thời gian phải nghỉ thi đấu do chấn thương, Seaman ngay lập tức tuyên bố giải nghệ vào tháng 1 năm 2004 ở tuổi 40. Điều này đã giúp Keegan chọn được người thay thế ở vị trí thủ môn – David James – người đã thay thế anh trong vị trí số một ở đội tuyển Anh hơn một năm trước. Seaman là một trong số ít cầu thủ giải nghệ đã từng chơi hơn 1000 trận đấu trong suốt sự nghiệp thi đấu ở cả cấp Clb lẫn đội tuyển.

    Tháng 11 năm 2005, Paul Merson và Walsall đã gặp Seaman, và sau đó là cựu thủ môn người xứ Wales Neville Southall để đưa anh về Merthyr Tydfil chơi một trận đấu ở cúp FA khi mà hai thủ môn quan trọng của họ là Joe Murphy and Andy Oakes không thể thi đấu. Tuy nhiên, Seaman đã không đồng ý với lời đề nghị này, vì điều đó sẽ khiến cho anh vi phạm điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm – cơ quan chi trả cho những ảnh hưởng xấu do chấn thương vai của anh - khi giải nghệ.

    Khi kết thúc sự nghiệp bóng đá

    Sự xuất hiện trên truyền hình của Seaman đã khiến cho nhiều chương trình phỏng vấn những nhân vật nổi tiếng đã mời anh để nói về toàn bộ sự nghiệp chơi thể thao của cựu thủ môn này và anh đôi khi cũng xuất hiện trên kênh truyền hình của nước Anh. Khi vẫn là cầu thủ, Seaman đã đóng một vai trong bộ phim dựa trên những sự kiện thành công của anh tại Euro 96 của đài BBC, trong vai Rachel Weisz, bộ phim có tựa đề “My Summer with Des”.

    Trong một thời gian ngắn, anh đã thay thế Gary Lineker với vai trò người phụ trách trong một chương trình thi đố trên truyền hình có tên “They Think It's All Over” trước khi những nhà sản xuất quyết định thay thế anh bằng cựu cầu thủ của Arsenal, đồng đội của anh Ian Wright.

    Tháng 12 năm 2004, sau khi giã từ sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp, anh trở thành một trong những nhân vật danh tiếng tham gia vào giải khiêu vũ trên băng, ở đó những nhân vật nổi tiếng sẽ ghép đôi với những bạn nhảy chuyên nghiệp. Anh tham gia cuộc biểu diễn vào thời điểm cuối cùng, thay thế cho Paul Gascoigne. Cuộc thi được phát vào ngày 26 tháng 12 trên đài BBC 1, với tám ngày chuẩn bị cho show diễn, Seaman và bạn cùng nhảy của mình Zoia Birmingham đã dành chiến thắng, trong khi các đôi nhảy khác đã tập luyện với nhau một tháng cho buổi trình diễn.

    Cuối năm 2005, anh cũng xuất hiện trên một chương trình trực tiếp vì từ thiện, và sau đó quay trở lại với sân băng với một loạt các cuộc thi khiêu vũ trên băng khác, được phát trên ITV. Các chương trình này bắt đầu vào ngày 14 tháng 1 năm 2006, và Seaman đã đứng ở vị trí thứ tư. Anh cũng xuất hiện trên chương trình “All Star Family Fortunes”.

    Seaman cũng dẫn một chương trình về một giải đấu golf từ thiện được tổ chức hàng năm có tên là "Safe Hands" và đã phát hành 2 đĩa DVD chủ đề về bóng đá với tiêu đề là “David Seaman's Goalkeeping Nightmares” vào năm 2003 và “Jeepers Keepers” năm 2004. Những đĩa DVD này là những clip về những vụ va chạm khó xử trong bóng đá.

    Bảng thống kê
    Tại đội tuyển Anh
    Thi đấu trọn vẹn 75 trận
    Trận đầu tiên được ra sân là trận gặp đội Arập Xêút ngày 16 tháng 11 năm 1988 tại Riyadh – trận đấu có tỷ số 1-1
    Lần cuối cùng xuất hiện dưới màu áo đội tuyển là trong trận gặp Macedonia ngày 16 tháng 10 năm 2002 tại Southampton – trận đấu có tỷ số 2-2
    6 lần ra sân ở đội Anh B
    10 lần ra sân ở đội U21 Anh

    Danh hiệu
    Tại World Cup
    Tham dự năm 1998 và 2002
    Không tham dự năm 1990 (Rút lui do chấn thương)

    Tại Euro
    Tham dự năm 1996 và 2000

    Giải đấu giao hữu tổ chức tại Pháp
    Vô địch năm 1997

    Vô địch giải hạng Nhất/giải ngoại hạng: 3
    1991, 1998, 2002
    Vô địch cúp FA: 4
    1993, 1998, 2002, 2003
    Vô địch cúp Liên đoàn: 1993
    Vô địch cúp C2: 1994


    Because The Main One

Qui định gửi bài

  • Bạn không thể lập chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi bài phản hồi
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết
  •