Lee Dixon

Tên đầy đủ: Lee Michael Dixon
Ngày sinh: 17/03/1964
Nơi sinh: Manchester, Anh
Vị trí: hậu vệ

Đội trẻ: Burnley

Thi đấu chuyên nghiệp*
Năm Câu lạc bộ Số trận (bàn thắng)
1982-1984 Burnley 4 (0)
1984-1985 Chester City 57 (1)
1985-1986 Bury 45 (5)
1986-1988 Stoke City 71 (5)
1988-2002 Arsenal 458 (24)

Tuyển quốc gia**
1990-1998 Anh 22 (1)

* Số trận và bàn thắng cho câu lạc bộ ở giải trong nước tính đến ngày
27/08/2006.
** Số trận và bàn thắng ghi đươc cho tuyển quốc gia tính đến ngày
27/08/2006.
Sự nghiệp thi đấu
Lee Michael Dixon (sinh ngày 17/3/ 1964 tại Manchester, Anh) là một thành viên của hàng phòng ngự lừng lẫy của Arsenal trong những năm 90 và về sau.

Lee Dixon sinh trưởng tại Manchester và là cổ động viên Manchester City. Dixon đến với bóng đá đỉnh cao khá muộn - anh đã chơi cho Burnley (nơi anh đá ở đội 2), Chester City, Bury và Stoke City trước khi được huấn luyện viên của Arsenal ông George Graham đưa về vào 1/1988.

Arsenal tìm người thay thế cho hậu vệ người Anh Viv Anderson, người đã bị bán sang Manchester United, thế là Dixon được đưa lên đội 1 ở Highbury. Với hậu vệ kì cựu Kenny Sansom ở bên trái, hậu vệ trái Nigel Winterburn đã thi đấu rất thành công ở vị trí hậu vệ phải đầy lạ lẫm, Dixon đã có trận ra mắt khi gặp Luton Town vào 2/1988 và chơi tổng cộng 6 trận trước khi mùa bóng kết thúc. Trong mùa hè, Sansom rời Arsenal và Winterburn được trả về vị trí, Dixon được mang áo số 2, ở vị trí mà anh đã chơi rất tốt trong hơn 10 năm.

Khi lối chơi phòng ngự không còn làm vừa mắt khán giả, những cái đầu lọc lõi đã chuyển lối chơi Arsenal thành 4 hậu vệ, theo cách họ đã chơi ở những năm 90. Dixon và Winterburn chơi tại hai cánh, trong khi đôi trưởng Tony Adams và trung vệ kì cựu David O'Leary trấn giữ ở giữa. Năm 1989 họ đón nhận Steve Bould, người cũng như Dixon, đã được Graham đưa về từ Stoke City. Thế là 5 hậu vệ thường xuyên chơi tại các vị trí khác nhau của hàng phòng ngự, (hơn cả 4 hậu vệ truyền thống) là sự thay đổi quan trọng của Arsenal khi họ đoạt chức vô địch quốc gia năm 1989, danh hiệu đầu tiên từ sau cú đúp năm 1971, khi mà Graham vẫn còn là cầu thủ.

Dixon là chuyên gia cướp bóng bên cánh phải, bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng hỗ trợ cầu thủ chạy cánh David Rocastle và kỹ năng tấn công của anh rất có tiếng ngay cả khi nhiệm vụ chính của anh là phòng ngự (và ưu thế chính bên cánh). Anh cũng có một ảnh hưởng mạnh mẽ trong suốt thời kỳ này khi anh là một chuyên gia sút Penalty của câu lạc bộ. Arsenal bị vượt qua tại League championship cho tới ngày cuối cùng của mùa bóng khi họ đối mặt với Liverpool tại Anfield vào tối thứ 6 một ngày cuối tháng 5.

Trận đấu bị hoãn lại và mang lại rất nhiều lợi thế cho Liverpool, đội đã vượt qua nỗi ám ảnh khung khiếp về thảm họa Hillsborough và đoạt FA Cup, giữa Arsenal chỉ còn lại họ và cú đúp nữa. Arsenal đã trải qua rất nhiều các giải đấu bị ngăn chặn bởi Liverpool, cần phải thắng với cách biệt ít nhất là 2 bàn, đó là điểm khác biệt ghê gớm giữa 2 đội. Nếu không chức vô địch là của Liverpool.

Trận đấu được duy trì với tỉ số 1-0 cho đến khi đồng hồ chỉ tới phút 90. Dixon một mình nhận bóng và thấy có cơ hội kết thúc 1 đường tấn công. Nhận thấy tiền đạo cắm Alan M. Smith đã dạt sang cánh phải, Dixon phất một đường bóng dài chuẩn xác đến ngực anh. Những bước chạy của Smith đã lôi kéo hậu vệ Liverpool chạy theo và tiền vệ Michael Thomas của Arsenal chọc ngay vào khe hở đó, nhận cú chuyền bóng hoàn hảo của Smith và bấm bóng qua đầu thủ môn Bruce Grobbelaar. Quá muộn cho Liverpool bắt đầu lại và chức vô địch là của Arsenal, danh hiệu đầu tiên trong bộ sưu tập của Dixon.

Arsenal đã chiến đấu để bảo vệ chức vô địch (không thể tham dự Cup châu Âu bởi lệnh cấm các câu lạc bộ Anh sau thảm họa Heysel) nhưng niềm vui đến với Dixon khi anh có trận ra mắt tuyển Anh vào 4/1990 tại trận đấu trước World Cup gặp Czechoslovakia. Anh đã chơi tốt, nhưng hy vọng được gọi vào tuyển cho giải đấu lớn nhất hành tinh là rất nhỏ nhoi khi anh chỉ là sự lựa chọn thứ 3 sau Gary Stevens và Paul Parker. Chỉ có chấn thương xảy đến cho một trong 2 người mới mở ra cánh cửa cho Dixon tới Italy và điều đó đã không xảy ra.

Sau World Cup, huấn luyện viên mới Graham Taylor ngay lập tức thay thế Stevens và Parker bằng Dixon, người đã ghi 1 bàn tại Wembley trong trận đấu thứ 6 của vòng loại Euro 92 trước Cộng hoà Ireland. Trận đấu kết thúc với tỉ số hòa 1-1. Cũng trong mùa bóng này, hàng thủ khét tiếng của Arsenal (bấy giờ David Seaman chơi ngay sau họ) ngày một tiến bộ, với chỉ 1 trận thua trong mùa bóng họ lại đoạt chức vô địch.

Hết năm 1991, Dixon đã chơi 11 trận cho tuyển quốc gia, bao gồm tất cả các trận vòng loại Euro 92. Anh đã lọt vào vòng chung kết tổ chức tại Thuỵ Điển. Khi vòng chung kết diễn ra, Dixon gặp một chấn thương, do đó Stevens được gọi thay thế. Taylor điền tên Dixon thay vì Stevens trong danh sách dự tuyển, thế nhưng chấn thương đã đến trong một trận đấu. Stevens được gọi lại, cho đến khi hậu vệ của Rangers cũng gặp một chấn thương. Đội Anh phải thi đấu mà không có một hậu vệ cánh phải thực thụ trong đội hình và cũng chẳng vượt qua được vòng bảng.

Sau mùa hè, Dixon trở lại tuyển Anh khi mà hàng phòng ngự của câu lạc bộ đang lỏng lẻo. Với O'Leary sắp giải nghệ, Graham đã bổ sung cho vị trí trung vệ khi đem về Martin Keown từ Everton –đáng chú ý ở chỗ đây chính là cầu thủ được gọi bổ sung cho vị trí hậu vệ phải tại Euro 92 sau khi cả Dixon và Stevens không thể thi đấu.

O'Leary có trận cuối cùng ở vị trí hậu vệ phải của Dixon trong trận chung kết League Cup năm 1993 với Sheffield Wednesday do Dixon không đảm bảo thể lực. Arsenal thắng 2-1. Dixon trở lại trong trận chung kết FA Cup, trận đấu mà Arsenal dành thắng lợi sau khi đá lại, vì trận trước đã kết thúc với tỉ số hòa 1-1. Không may, vào năm 1993 tuyển quốc gia Anh thi đấu không tốt và thất bại tại vòng loại World Cup 1994 tổ chức tại Mĩ.

Trận đấu thứ 21 của Dixon là chiến thắng 7-1 trước San Marino tại vòng loại WC ( một trận đấu thủ tục), cũng là trận cuối cùng dưới sự dẫn dắt của Taylor trước khi Terry Venables lên thay. Cuộc thử nghiệm với các hậu vệ phải chỉ kết thúc khi Gary Neville thi đấu thành công năm 1995, vị trí đó được duy trì đến bây giờ.

Năm 1994, Dixon vô địch cúp Châu Âu để bổ sung vào bộ sưu tập chiến tích một hậu vệ huyền thoại của Arsenal, người luôn luôn dùng những khả năng của mình để ngăn chặn thành công lối chơi lắt léo của các cầu thủ khác. Một lần nữa, lối chơi phòng ngự hiếm khi là 1 cuộc trình diễn thế nhưng cái cách mà Dixon, Winterburn, Bould và Adams nỗ lực chứng tỏ được trình độ của mình trước những Tomas Brolin, Gianfranco Zola và Faustino Asprilla của câu lạc bộ Italia Parma thật là thú vị ngay cả đối với những khán giả tôn thờ chủ nghĩa bóng đá tấn công. Arsenal sớm ghi bàn trong trận chung kết European Cup Winners Cup tại Copenhagen và để hàng phòng ngự nghỉ ngơi, chung cuộc họ thắng 1-0.

Dixon lại mang chiếc áo số 2 khi Arsenal tiếp tục sa sút vào năm 1995 nhưng họ đã vào chung kết Winners Cup một lần nữa. Mặc dù hàng thủ ở Paris đã bị Real Zaragoza chọc thủng, Arsenal nhanh chóng lập lại thế cân bằng và trận đấu phải đá thêm giờ. Hậu vệ hoàn thành nhiệm vụ nhưng lại xảy ra một cú sút rất tức cười tận đường biên gần giữa sân ở phút cuối cùng, thực hiện bởi Nayim (người vừa trở lại sau chấn thương, cựu cầu thủ Spurs) và giằng cup ra khỏi tay các Gunners.

Cuối năm 1996, Arsène Wenger tới Highbury và bắt đầu tiến hành xây dựng lối chơi và chiến thuật của mình cho đội hình Arsenal, thay đổi hoàn toàn nhãn quan và cả chế độ dinh dưỡng. Điều này cho phép hàng thủ của Arsenal có thể kéo dài phong độ đỉnh cao. Ông Wenger ngay lập tức thay đổi cách chơi của các hậu vệ và yêu cầu họ chơi nhanh hơn, hợp lí hơn. Dixon và các đồng đội luôn luôn bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn đối với Wenger sau những chỉ bảo của ông để có thể kéo dài sự nghiệp.

Arsenal lại đoạt cú đúp năm 1998 và Dixon đã được trao 1 kỉ niệm chương vì đã tham gia đầy đủ các trận đấu của Arsenal trong mùa giải đó. Anh cũng nhận được món quà bất ngờ khi được gọi lại vào tuyển Anh dưới sự dẫn dắt của Howard Wilkinson, người lên nắm quyền sau sự ra đi của Glenn Hoddle. Dixon đã chơi trong trận thua 2-0 trước đội Pháp ở Wembley, sau đó anh biến mất một cách lặng lẽ khỏi tuyển quốc gia và không bao giờ quay lại. Anh đã khoác áo tuyển quốc gia 22 lần nhưng không được tham gia giải đấu lớn nào.

Dixon chơi tại UEFA Cup năm 2000, giải đấu Arsenal đã lọt vào trận chung kết cũng tại sân vận động Copenhagen nơi họ đã đoạt Winners Cup 6 năm trước đó. Trong trận đấu này họ đã bị đánh bại trong loạt penalty trước Galatasaray của Thổ Nhĩ Kì. Năm tiếp theo Arsenal lọt vào chung kết FA Cup nhưng thất bại trước Liverpool với tỉ số 2-1 tại sân vận động Thiên niên kỉ ở Cardiff - Dixon lúc đó đã 37 tuổi và sắp giải nghệ, anh không thể hoàn thành nhiệm vụ khi để cầu thủ Michael Owen 21 tuổi ghi 1 bàn thắng.
Sau khi giải nghệ
Dixon giải nghệ ngay trong mùa bóng mà Arsenal đoạt được 1 cú đúp khác. Cùng với sự ra đi của Adams, chỉ còn Seaman và Keown tiếp tục phục vụ cho câu lạc bộ kể từ ngày hàng phòng ngự trở thành hàng thủ được kính trọng nhất giải vô địch Anh. Sau khi O'Leary giải nghệ năm 1993, Bould là người tiếp theo của hàng phòng ngự trứ danh ra đi vào năm 1999 và Winterburn cũng rời Highbury một năm sau đó.

Dixon gây ấn tượng sâu sắc ở Arsenal khi chơi 458 trận ở giải trong nước với 25 bàn thắng, hoàn thành bộ sưu tập huy chương khổng lồ.

Sau khi giải nghệ và li dị, anh thử sức trong một số lĩnh vực kinh doanh trong đó có cửa hàng Riverside Brasserie ở Bray, Berkshire, cùng người bạn Heston Blumenthal. Anh tập chơi golf mỗi ngày ở câu lạc bộ Woburn. Anh cũng trở thành bình luận viên đài BBC, và gần đây bắt đầu kiếm được công việc chỉ đạo trong chương trình bóng đá Match of the Day.

2. Tony Adams
Tên đầy đủ: Tony Alexander Adams, Tước hiệu Hiệp sĩ
Sinh ngày: 10/10/1966 - Tại Romford, London
Nick name: Mr.Arsenal

Vị trí khi còn là cầu thủ: Trung vệ
Hiện tại: trợ lí HLV Portsmouth.
Gia đình: Vợ: Poppy, có một con trai tên Atticus năm nay 2 tuổi.
Thành tích:
- Khi còn là cầu thủ:
Từ 1984–2002 chơi cho Arsenal , tham dự 504 trận đấu và ghi được (32) bàn
Từ 1987–2000 cùng Tuyển Anh tham dự 66 trận đấu và ghi được (5) bàn
- Huấn luyện:
2003–2004 Wycombe Wanderers
2006–nay Portsmouth (trợ lý)
Sự nghiệp cầu thủ
Adams sinh ra tại Romford, London. Anh ham mê bóng đá từ khi còn là một cậu bé. Adams gia nhập Arsenal năm 1980 khi còn đang đi học phổ thông. Tại đây anh đã gắn bó cả sự nghiệp cầu thủ 22 năm của mình với câu lạc bộ. Trận đấu đầu tiên Adams được đá chính là trận gặp Sunderland ngày 5 tháng 11 năm 1983 khi anh mới 17 tuổi. Lee Dixon, Nigel Winterburn, Steve Bould và Tony Adams đã hợp thành bộ tứ nổi tiếng ở hàng phòng ngự của Arsenal thời George Graham, người nổi tiếng về kỉ luật và bẫy việt vị.

Ở tuổi 21 Adams trở thành người đội trưởng trẻ tuổi nhất của câu lạc bộ và anh tiếp tục giữ vị trí đó 14 năm liền.

Với một hàng phòng ngự mạnh chơi trong một phạm vi rộng, Arsenal đã dành League Cup mùa giải 1986-87, sau đó họ tiếp tục leo lên những vị trí đầu năm 1988-1989, và tiếp tục thành tích đó ở mùa giải 1990-1991 và 1992-1993.

Adams trở thành người đội trưởng đầu tiên của câu lạc bộ dành được cả hai danh hiệu League Cup và FA Cup. Và năm sau đó anh lại cùng Arsenal có được chiếc Cup C2 Châu Âu.

Cũng trong thời điểm đó anh cũng đặt dấu ấn trong sự nghiệp thi đấu quốc tế của mình trong trận Anh gặp Tây Ban Nha năm 1987. Đó là trận đấu đầu tiên của Adams cho đội tuyển Quốc gia và sau đó là tham dự Euro 88. Sau khi sớm thành công trong sự nghiệp thi đấu quốc tế Adams gặp phải một chút rắc rối. Anh vắng mặt một cách ngạc nhiên tại World Cup 1990 bởi huấn luyện viên Bobby Robson, sau đó bở lỡ Euro 92 do bị chấn thuơng. Tuy vậy anh vẫn là cầu thủ không thể thiếu ở hàng phòng ngự. Sau khi Gary Lineker tiền đạo đội tuyển Anh giã từ sân cỏ năm 1992, Adams chia sẻ cho David Platt giữ chức đội trưởng không chính thức, mặc dù trước đó Adams đảm nhiệm tất cả ở Euro 96 khiến vị trí của Platt trở nên không chắc chắn. Đội tuyển Anh lọt vào đến vòng bán kết nhưng sau đó lại để thua Đức trên chấm phạt đền.

Tuy vậy, cùng thời điểm đó vợ của Adams rất suy sụp vì chứng nghiện rượu của chồng. Adams thường xuyên la cà trong những quán rượu hay những hộp đêm và đã không ít lần lái xe loạng choạng gây tai nạn. Năm 1990 anh phải vào trại cai nghiện rượu trong ba tháng. Sau Euro 96 anh thừa nhận rằng mình là một người nghiện rượu trở nên tĩnh tâm hơn sau khi được điều trị. Anh tiếp tục theo học và còn tham gia những lớp piano. Anh đã vượt qua được chính bản thân mình và năm 1998 Adams trở lại là chính mình.

Có lẽ cho đến giờ anh vẫn đội ơn Arsene Wenger bởi khi đến với Arsenal năm 1996 ông đã giúp Adams không nhỏ trong việc động viên dìu dắt anh. Ông trở thành người hướng dẫn lối sống mẫu mực cho các cầu thủ. Wenger đã tin tưởng anh và vẫn giao cho anh chức đội trưởng, sự ân cần của người thầy khiến Adams cảm thấy hình ảnh Wenger trở nên đẹp hơn bao giờ hết. Anh hiểu và đã làm được điều anh cần phải làm. Anh đã cùng Arsenal hai lần dành cú đúp Premiership và FA Cup những năm 1997-1998 và 2001-2002. Anh trở thành cầu thủ đội trưởng duy nhất trong lịch sử bóng đá Anh cùng câu lạc bộ dành chức vô địch ở cả 3 thập niên.

Trong khi đó huấn luyện viên Glenn Hoddle của đội tuyển Anh đã trao băng đội trưởng cho Alan Shearer năm 1996. Một quyết định làm cho Adams không khỏi ngạc nhiên và tức giận cũng như để lại cho những cổ động viên đội tuyển Anh những câu hỏi khó hiểu. Adams vẫn tiếp tục thi đấu trong màu áo đội tuyển Quốc gia và cuối cùng cũng được tham giự World Cup 1998. Tại Euro 2000 đội tuyển Anh cũng không thành công. Sau khi Shearer không thi đấu cho đội tuyển quốc gia nữa Adams lại trở về với chiếc băng đội trưởng quen thuộc. Tuy nhiên trong những tháng đó đội tuyển Anh đã để tuột mất cơ hội đến Đức tháng 10/2000. Trận đấu cuối cùng được tổ chức trên sân Wembley trước khi sân vận động đó được xây lại. Trận đấu đó là lần thứ 60 Adams chơi trên mặt sân Wemley, một kỉ lục.

Sau này, dưới thời của HLV Sven-Göran Eriksson vị trí của Adams được thay thế bởi Rio Ferdinand. Adams đã giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế của mình trước khi Eriksson lên nắm quyền HLV.

Sau cú ăn đúp năm 2002 cùng Arsenal, Adams quyết định giã từ sân cỏ. Trận đấu cuối cùng của anh là trận chung kết FA cup 2002. Anh đã chơi 668 trận cho Arsenal (chỉ sau có David O'Leary) và là người đội trưởng thành công nhất trong lịch sử câu lạc bộ.

Chiếc áo số 6 của “Mr Arsenal” đã không được sử dụng tới từ mùa 2001-2002 nhưng tới mùa giải 2005-2006 chiếc áo số 6 đó đã có người kế thừa - Philippe Senderos.

Tháng 5 năm 2002 Adams trở thành cầu thủ Arsenal danh dự tham gia trận đấu với Celtic. Trận đấu có sự góp mặt của các huyền thoại Ian Wright, John Lukic. Và Adams trở lại cùng với bộ tứ huyền thoại Dixon, Winterburn và Bould. Trận đấu kết thúc với tỉ số hòa 1-1 với bàn thắng của Lee Dixon, trận đấu cuối cùng của anh trong màu áo The Gunners.

Năm 2004 Admas được nhận vào English Football Hall of Fame với sự công nhận tầm ảnh hưởng của anh trong những trận đấu tại Anh.
Sự nghiệp HLV
Sau khi kết thúc một khóa học đào tạo quản lí thể thao tại trường đại học Brunel, Adams trở thành người quản lí chính thức của Wycombe Wanderers năm 2003. Tháng 11 năm 2004 anh từ chức.

Ngày 7/7/2005 Adams nhận lời làm huấn luyện viên đào tạo học viên cho Feyenoord của Hà Lan. Anh đảm nhận một đội trẻ của Feyenoord. Sau đó anh có một thời gian ngắn ngủi làm huấn luyện viên trưởng cho Utrecht vào khoảng 15/1 đến 2/2 năm 2006.

Ngày 28/6/2006 Admas tới Portsmouth với cương vị là trợ lí HLV của đội bóng, vị trí kế nhiệm Kevin Bond
Những công việc từ thiện
Tháng 9/2000, với những kinh nghiệm về hậu quả của rượu, Adams đã lập ra một phòng khám chuyên khoa trong thể thao, một tổ chức với mục đích từ thiện chuyên cung cấp những phuơng pháp điều trị, những hướng dẫn và sự giúp đỡ những vận động viên thể thao có thể chấm dứt những vấn đề liên quan đến việc cai nghiện rượu, ma túy hay chất kích thích.

3. Martin Keown

Tên đầy đủ: Martin Raymond Keown
Ngày sinh: 24 – 7 – 1966
Nơi sinh: Oxford
Vị trí: hậu vệ

Keown là mẫu cầu thủ bóng đá truyền thống của Anh trong khi lại là người gốc Ailen và đã gắn bó phần lớn sự nghiệp của mình trong màu áo Arsenal.
Sự nghiệp thi đấu
Trong vai trò là một hậu vệ, Keown đã chơi cho một vài câu lạc bộ địa phương khi còn nhỏ trước khi gia nhập Arsenal theo một thoả thuận vào năm 1980, cho dù sau đó anh đã đá trận đầu ra mắt trong sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp cho Brighton & Hove Abilon theo hợp đồng cho mượn vào năm 1984. Keown đã quay trở lại Arsenal và chỉ kịp xuất hiện có 22 lần trước khi bị ngài chủ tịch mới của Arsenal khi đó là George Graham bán cho Aston Villa vào năm 1987.

Keown đã chơi cho Aston Villa 3 mùa giải trước khi chuyển tới Everton vào mùa hè 1989. Tại Everton anh đã được lần đầu tiên thi đấu trong màu áo đội tuyển quốc gia trong trận gặp Pháp năm 1992. “Nhờ“ chấn thương của Mark Wright mà Keown đã được triệu tập vào đội tuyển Anh thi đấu tại Euro 92 và đã đá trong cả 3 trận của tuyển Anh.

Tháng 2-1992, Keown đã kí một bản hợp đồng mới để quay trở lại câu lạc bộ cũ Arsenal với giá chuyển nhượng là 2 triệu bảng. Keown phải cạnh tranh vị trí hậu vệ trung tâm thứ hai để đá cặp với Tony Adams. Anh không xuất hiện trong màu áo Arsenal tại cả cúp FA và League Cup năm 1993 theo luật "cup-tied" và chỉ được thay vào trong trận thắng Parma giành cúp C2 một năm sau đó. Tuy nhiên anh đã trở thành một phần không thể thiếu trong cú đúp (gồm chức vô địch giải Ngoại hạng và vô địch cúp FA) năm 98 và 2002 của Arsenal dưới triều đại Arsene Wenger.

Những thành công từ rất sớm của Keown trong màu áo đội tuyển quốc gia khi Graham Taylor còn dẫn dắt không được phát huy khi Terry Venables lên thay thế. Ông đã không trọng dụng anh. Cho đến tháng 3-1997 cơ hội mới lại đến với anh khi Glenn Hoddle làm HLV trưởng đội tuyển Anh. Sau đó Keown tiếp tục được tham dự World Cup 98 nhưng lại không được thi đấu. Phải đến triều đại của Kevin Keegan Keown mới thực sự được trọng dụng (đeo băng đội trưởng trong trận đấu gặp Phần Lan) và được chơi 2 trận tại Euro 2000. Khi Sven-Goran Eriksson trở thành HLV trưởng đội tuyển Anh, tuổi tác trở thành một vấn đề bất lợi cho Keown và cho dù vẫn có tên trong danh sách thi đấu tại World Cup 2002, một lần nữa anh chỉ là cầu thủ dự bị. Vắng mặt một số trong một số trận đấu đầu tiên dưới triều đại Eriksson vì lý do chấn thương nhưng anh đã quay lại đầy ấn tượng trong trận gặp Mexico và sau đó là trận gặp Hi Lạp tại vòng loại World Cup. Anh đá khá cặp khá ăn ý với Rio Ferdinand trong một dàn cầu thủ trẻ tuổi và phải cạnh tranh vị trí với Sol Campbell. Trong 43 lần khoác áo đội tuyển quốc gia Anh, Keown ghi được 2 bàn thắng.

Keown chơi cho Arsenal cho đến năm 2004 cùng với Arsenal đạt được một chiếc cúp vô địch Ngoại hạng. Sau đó anh rời khỏi Arsenal theo một bản chuyển nhượng tự do. Anh đã ký hợp đồng với Leicester City nhưng lại rời bỏ chỉ sau đó hơn 6 tháng (có tin đồn rằng anh mâu thuẫn với chủ tịch của Leicester – Micky Adams) và tới chơi cho Leading từ tháng 1-2005 cho tới cuối mùa giải và rồi từ giã sự nghiệp cầu thủ.

Keown gia nhập hội đoàn huấn luyện của Newbury vào tháng 8-2005 nhưng hiện nay anh đang tham gia công tác đào tạo tại Arsenal và được HLV cũ của Arsenal – Terry Neill tin dùng, coi là chìa khoá đằng sau thành công của hàng phòng thủ kiểu mới có vẻ còn non kinh nghiệm (được dùng đến như một phương sách để đối phó với vấn đề chấn thương) trong mùa giải 2005-06 mà đáng kể nhất là kỷ lục 919 phút không để thủng lưới tại Champions League.

Tính đến lần thứ 400 khoác áo Arsenal trong chiến thắng giành cúp FA Community Shield trước MU đầu mùa giải 2002-03 Keown đã ghi được tổng cộng 8 bàn thắng cho câu lạc bộ.
Danh hiệu
Vô địch Ngoại hạng: 1998, 2002, 2004
Vô địch cúp FA: 1998, 2002, 2003
Á quân cúp UEFA: 2000
Á quân cúp FA: 2001
43 lần khoác áo đội tuyển quốc gia Anh

4. Nigel Winterburn

Cầu thủ vùng trung du nước Anh đã phục vụ câu lạc bộ trong 13 năm, luôn có vị trí chắc chắn trong "Bộ tứ hậu vệ" từ cuối thập niên 1980 đến hết thập niên 1990. Sự chuyên nghiệp và khát khao chơi bóng của ông đã giành được sự ngưỡng mộ của các cổ động viên trong suốt sự nghiệp tại Highbury cho đến khi ông rời khỏi câu lạc bộ vào những tháng đầu tiên của thế kỉ 21. Ở tuổi 36, Winterburn chuyển đến West Ham với một khát khao vẫn bùng cháy. Quan điểm của ông là muốn tìm cho mình một câu lạc bộ có thể cho ông tiếp tục sự nghiệp của mình ở cấp độ cao nhất.

Winterburn được kí hợp đồng để thay thế cho Kenny Sansom đã lớn tuổi nhưng ông đã phải trải qua lớn thời gian của mùa giải đầu tiên ở đội hình dự bị. Ông đã chơi rất ấn tượng và giành một suất trong đội hình chính thức. Thay thế một cầu thủ như Sansom không phải là việc dễ dàng, Nigel đã làm nên điều khác biệt.

Mặc dù nổi tiếng là hậu vệ trong một đội bóng có lối chơi chắc chắn, Winterburn không ngần ngại lên bóng ở cánh trái. Ông làm điều đó và cũng có thể dứt điểm. Những pha bóng hủy diệt trước Chelsea và Norwich luôn sống mãi trong kí ức, cũng như cầu thủ với cái chân phải không thuận trước câu lạc bộ cũ Wimbledon trong khoảng thời gian cuối của cuộc chạy đua đến chức vô địch 1988/89.

Nhưng 12 bàn thắng của ông chỉ như một chú lùn khi so sánh với ngọn núi những đường kiến tạo mà Winterburn đã thực hiện. Ông có những đường chuyền vô cùng chính xác từ biên và có sở trường qua mặt hàng hậu vệ với những đường chuyền vượt tuyến sắc sảo. Có lẽ đường chuyền từ tình huống cố định tiểu biểu nhất là khi ông tạt cho Alan Smith ghi bàn đầu tiên trong cái đêm huy hoàng ở Anfield vào tháng năm 1989.

Ở tuyến sau, cầu thủ từng hai lần khoác áo đội tuyển Anh là một người truy cản mạnh mẽ, ông có một nguồn thể lực và sự khôn khéo khiến cho các tiền đạo đối phương hiếm khi nào qua mặt được.

Sự hiện diện của Winterburn trong đội hình giành cú Double năm 1998 là phần thưởng xứng đáng cho những năm tháng công hiến của ông cho CLB. Ông trải qua mùa giải có vẻ bất chấp những năm tiếp theo, loại bỏ những dấu hiệu của khả năng bị tấn công đã dần bộc lộ trong các trận đấu trước khi Arsène Wenger đến Arsenal.

Winterburn rời khỏi đội bóng phía bắc London với rất nhiều danh hiệu - ba chức vô địch giải quốc gia, hai FA Cup, một League Cup và một European Cup Winners Cup - và tiếp tục làm việc cho câu lạc bộ ở bộ phận phát thanh.

Hồ sơ
Họ tên: Nigel Winterburn
Ngày sinh - Nơi sinh: 11/12/1963. Nuneaton.
Vị trí: Hậu vệ cánh trái
Sự nghiệp tại Arsenal: 1987-2000
Số lần khoác áo Arsenal: 584
Số bàn thắng ghi được cho Arsenal: 12
Danh hiệu cùng Arsenal: League Championship 1989, 1991, 1998
FA Cup 1993, 1998
League Cup 1993
European Cup Winners Cup 1994