Quốc tịch: Scotland
Trở thành HLV United từ ngày: 06/11/1986
Số năm làm HLV United: 20
Các danh hiệu Premier League: 1993, 1994, 1996, 1997, 1999, 2000, 2001, 2003
FA Cup: 1990, 1994, 1996, 1999, 2004
League Cup: 1992, 1996
UEFA Champions League: 1999
UEFA Super Cup: 1992
UEFA Cup Winners Cup: 1991
Cup liên lục địa: 1999
FA Charity / Community Shield: 1993, 1994, 1996, 1997, 2003
Nắm cổ phần từ năm: 1990
Sir Alex Ferguson là HLV thành công nhất trong lịch sử bóng đá Anh với việc giành được 18 danh hiệu quan trọng trong suốt sự nghiệp huấn luyện Quỷ Đỏ. Cho dù đã thống lĩnh đội quân của sân Old Trafford trong hơn 2 thập kỷ, nhưng ông vẫn đang tiếp tục nỗ lực để nâng cao thêm bảng thành tích dày đặc của mình cũng như mang về những cúp bạc cho Manchester United.
HLV Quỷ Đỏ đã có một sự nghiệp sân cỏ không mấy thành công khi chỉ có những quãng thời gian gắn bó ngắn ngủi với các CLB Queen's Park, St Johnstone, Dunfermline, Glasgow Rangers, Falkirk và Ayr United. Dường như sự nghiệp đi giầy không phải là định mệnh của ông...
Sau một thời gian ngắn từ giã sân cỏ, ông chuyển sang nghề huấn luyện và bắt đầu với việc nắm giữ vai trò HLV của East Stirlingshire, St Mirren rồi đến Aberdeen. Nhưng chính quãng thời gian ở Pittodrie mới giúp ông gây dựng được tiếng tăm của một nhà huấn luyện hàng đầu cho mình. Ông đã phá vỡ thế thống trị bóng đá Scotland của Glasgow để đưa Aberdeen giành được 3 danh hiệu vô địch, 4 cúp Scotland, 1 League Cup và 1 European Cup Winners’ Cup.
Sau khi sa thải Ron Atkinson - HLV thời đó của Manchester United, chủ sân Old Trafford nhanh chóng tìm đến ông. Và họ đã có được người họ muốn vào ngày 6/11/1986.
Ferguson đã được thừa hưởng một đội bóng rời rạc, mất nhuệ khí với những cầu thủ thi đấu dưới sức mình, luôn làm các cổ động viên cảm thấy thất vọng khi không thể phá vỡ sự thống trị của Liverpool trong một thời gian dài. Bị mắc kẹt ở vị trí thứ 4 từ dưới lên trong bảng xếp hạng của giải Hạng Nhất, nhiệm vụ tức thì của Ferguson lúc đó chính là cố gắng ngăn chặn khả năng xuống hạng đang đến rất gần đối với đội bóng áo đỏ. Không thể tìm đến sự chi viện của thị trường chuyển nhượng, nhưng ông vẫn đưa được United tiến lên và kết thúc ở vị trí thứ 11.
Lúc này, điều quan trọng đối với Ferguson là phải xoay chuyển cục diện của CLB. United là một đội bóng chơi đẹp mắt nhưng điều đó dường như không thể là chìa khóa để cạnh tranh được với môi trường khắc nghiệt của một giải bóng đá. Trong mùa giải thứ 2 của ông, Quỷ Đỏ đã cải thiện được tình hình với vị trí thứ 2 sau Liverpool, nhưng vị trí này vẫn chưa phản ánh được điều gì. Bước ngoặt chính là mùa giải 1989/90.
Sau một chuỗi liên tiếp những trận đấu Quỷ Đỏ bị cầm hòa trên sân khách ở mỗi vòng đấu, United đã đăng quang lần đầu tiên trong thời đại Ferguson. Lee Martin đã ghi được bàn thắng duy nhất trong trận đá lại chung kết gặp Crystal Palace của FA Cup.
Danh hiệu đầu tiên này đã mở màn cho một chuỗi những thành công sau đó. Mùa bóng tiếp theo, họ giành được European Cup Winners' Cup tại Rotterdam khi đánh bại Barcelona với tỉ số 2-1 nhờ 2 bàn thắng của Mark Hughes. Và League Cup được tiếp tục thêm vào bảng vàng thành tích của United ở mùa giải 1991/92.
Đáng buồn thay, danh hiệu vô địch vẫn tiếp tục lảng tránh họ. Đó chính là "chiếc chén thánh" đối với các cổ động viên United, đã 26 năm trôi qua mà thế thống trị của Liverpool tại giải trong nước cũng như cúp Châu Âu vẫn chưa được phá vỡ.
Phải đến mùa giải 1992/93, quãng chờ đợi mỏi mệt đó mới đi đến hồi kết. Quỷ Đỏ, sau khi được tăng cường thêm bản hợp đồng trị giá 1 triệu bảng Eric Cantona, đã đánh bại Aston Villa tuần đấu cuối cùng của mùa giải để trở thành những nhà vô địch Premiership đầu tiên dưới sự dẫn dắt của HLV tài ba này.
Một khi sự bế tắc đã được phá vỡ thì những thành công cứ nối tiếp thành công: cú đúp mùa 1993/94, "đúp của đúp" mùa 1995/96, và một danh hiệu vô địch khác vào năm 1997. Cuối cùng United đã hòa hợp được sức mạnh ngoài sân cỏ với những thành công trên sân cỏ. Sự thống trị lâu dài của Liverpool đã thực sự kết thúc.
Thành quả lớn nhất của Sir Alex đến vào mùa giải 1998/99. Chưa từng có đội bóng nào trước đó giành được cú ăn 3 "hoành tráng" gồm: danh hiệu Premiership, FA Cup và European Cup. Vào một đêm không thể nào quên tại Barcelona, quyết định tung vào sân 2 cầu thủ dự bị của ông là Teddy Sheringham và Ole Gunnar Solskjaer đã làm nên lịch sử khi mà bộ đôi này đã ghi được 2 bàn thắng trong những phút thi đấu bù giờ để đưa United trở thành những nhà vô địch Champions League và hoàn thành cú ăn 3.
Ferguson đã được phong tước hiệp sĩ sau thành công đó và tưởng như những khát vọng của ông sẽ mất dần đi và sự nghiệp của ông sẽ chấm dứt tại đây sau khi đã hiện thực hóa được một giấc mơ đầy hào quang. Nhưng không hề. Một danh hiệu khác tiếp tục đến ở mùa 1999/2000 và ông đã hoàn thành chuỗi 3 mùa liên tiếp ở giải đấu 2000/01. Và lần đăng quang thứ 8 tại Premiership đến vào năm 2002/03; một năm sau đó là FA Cup thứ 4 trong sự nghiệp của ông ở trận chung kết gặp Millwall tại Cardiff.
Lúc này Quỷ Đỏ đang bước vào giai đoạn xây dựng lại. Đội bóng của những cầu thủ "nhà trồng được" mà ông đã gây dựng được giờ đã vỡ vụn và ông đã tuyển thêm những ngôi sao mới như Wayne Rooney và Cristiano Ronaldo để làm sức bật cho một thời đại thành công mới.
Sir Alex tin rằng việc giành được Carling Cup mùa 2005/06 - khi mà Quỷ Đỏ đánh bại Wigan Athletic 4-0 - có thể trở thành chất xúc tác cho một thời đại thành công mới. Và khi mà Chelsea đang trở thành lực lượng thống trị trên thị trường chuyển nhượng thì Sir Alex vẫn tiếp tục khao khát có thêm được những cúp bạc cho chính mình cũng như cho đội bóng thân yêu của ông.
Và trên thực tế thì sự khát khao đó đã khiến ông trì hoãn những kế hoạch nghỉ hưu của mình và nhắm tới việc đưa Manchester United trở lại thống trị bóng đá Anh và bóng đá Châu Âu thêm một lần nữa..
Các pác hiểu tại sao lại là Sir Alex chứ kô phải là Sir Arsène ^^! Tớ nghĩ sau này Sir Alex sẽ đc đúc tượng ngay cạnh Sir Matt Busby :D
Trích dẫn:
Với St. Mirren F.C.
* Giải hạng hai Scotland
o Vô địch: 1977
[sửa] Với câu lạc bộ Aberdeen
* Giải bóng đá ngoại hạng Scotland
o Vô địch (3): 1979/80, 1983/84, 1984/85
o Hạng nhì (2): 1980/81, 1981/82
* Cúp bóng đá Scotland
o Vô địch (4): 1981/82, 1982/83, 1983/84, 1985/86
* Cúp liên đoàn bóng đá Scotland
o Vô địch (1): 1985/86
o Lọt vào trận chung kết (2): 1978/79, 1979/80
* Cúp C2 châu Âu
o Vô địch (1): 1982/83
* Siêu cúp châu Âu
o Vô địch (1): 1983/84
[sửa] Với câu lạc bộ Manchester United
* FA Premier League
o Vô địch (10): 1992/93, 1993/94, 1995/96, 1996/97, 1998/99, 1999/00, 2000/01, 2002/03, 2006/2007, 2007/2008
* Cúp FA
o Vô địch (5): 1989/90, 1993/94, 1995/96, 1998/99, 2003/04
* League Cup
o Vô địch (2): 1991/92, 2005/06
* FA Charity Shield
o Vô địch (6): 1993, 1994, 1996, 1997, 2003, 2007
* UEFA Champions League
o Vô địch (2): 1967/1968, 1998/1999, 2007/2008
* Cúp C2 châu Âu
o Vô địch (1): 1990/91
* Siêu cúp châu Âu
o Vô địch (1): 1991/92
* Cúp Liên lục địa
o Vô địch (1): 1999