Stefan Effenberg
The 'Boss'
Tên đầy đủ: Stefan Effenberg
Sinh ngày: 2/8/1968
Nơi sinh: Hamburg, Tây Đức
Chiều cao: 1m88
Vị trí: Tiền vệ
Tên tuổi của Stefan Effenberg đồng hành với một trong những giai đoạn huy hòang nhất của lịch sử câu lạc bộ, khi Người lãnh đạo trời sinh này sải những bước chân dài trên đấu trường quốc tế.Tiền vệ Stefan Effenberg, một nhà lãnh đạo bẩm sinh, sở hữu khả năng lèo lái khác thường, được đồng đội nể phục trong hầu hết những tình huống căng thẳng và thử thách. “Effe” được đặt biệt danh “Cheffe” từ sớm – cách gọi thân mật cho 1 Ông Chủ Lớn.
Bắt đầu sự nghiệp cầu thủ tại Bramfelder SV (Hamburg) khi còn là cậu bé 5 tuổi. Mới 18 tuổi Stefan đã khiến cho các chuyên gia bóng đá chú ý và được coi là một trụ cột của Borussia Moenchengladbach- Một CLB lừng danh và là lò đào tạo cầu thủ trẻ nổi tiếng của bóng đá Đức.Effenberg chuyển từ Borussia Mönchengladbach đến Bayern từ năm 1990 khi chỉ mới 22 tuổi, nhưng lượt chơi đầu tiên của ông tại đây lại ko có danh hiệu nào, để rồi được chuyển đi sau hai mùa giải.Qua Ý (đá cho Fiorentina ) rồi về lại Gladbach để tìm kiếm vinh quang nhưng không mấy thành công. Năm 1998, ông trở lại Bayern. Đây là một quyết định cực kỳ sáng suốt vì cùng với Bayern, Effe đã có thời kỳ thành công rực rỡ nhất trong sự nghiệp của mình.
Trong những năm đỉnh cao tại Bayern Munich, Stefan Effenberg luôn được coi là tiền vệ kiến tạo hay nhất bóng đá Đức- một nhạc trưởng sân cỏ bẩm sinh thường có “những khoảnh khắc thiên tài”, nhưng lại là một cầu thủ hay gây gổ, không được người cùng thời mến mộ. Anh cũng chưa từng đoạt danh hiệu Vô Địch Châu Âu, và Vô Địch Thế Giới cùng với ĐT Đức, và các danh hiệu trên cũng chẳng bao giờ đến với anh ta nữa… bởi vì anh đã tự khia trừ mình ra khỏi đội tuyển. Tại vòng Chung Kết 1994, Stefan Effenberg luôn khiến cho người ta chú ý bởi tính cách “bất cần đời” của anh. Trên sân cỏ anh là một thủ lĩnh ban phát bóng cho đồng đội như một chú *** trống duy nhất, đẹp mã giữa một bầy *** mái. Anh xuất hiện trong lễ hội Noel trang trọng trong bộ đồ cao bồi Texax. Anh không chịu rời cặp kính râm đen kịt khi bắt tay các quan chức chóp bu của FC Bayern vào lúc lên đường sang Milan tham dự trận chung kết Champions league. Nhà đạo diễn sân cỏ tài năng từng được coi là “ linh hồn của đội bóng” này chưa bao giờ được bình chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất tháng của FC Bayern. Tuy “ cao to , đẹp trai”, nhưng các nữ cổ động viên của Bayern không hề vây quanh anh để xin chữ ký, như họ từng chen lấn nhau để cố đến gần cái anh chàng Mehmet Sholl “ thấp bé , nhẹ cân” nhưng lại có duyên thầm. Stefan Effenberg có một cái gì đó khiến người ta e ngại, không muốn gần.
Chính khả năng luôn gieo giắc nỗi kinh hoàng cho kẻ khác lại là một thế mạnh của Effenberg trên sân cỏ. Tại Moencheldbach người ta gọi anh là “con hổ”, còn ở Munich người ta gọi anh là Effe- một cách gọi tắt tên anh. Trên sân cỏ, anh là một ông sếp ( Chef) và phong độ thi đấu của anh ảnh hưởng đáng kể đến sự thành bại của toàn đội. Tại Champions league, nhờ thành tích thi đấu xuất sắc của Stefan mà Bayern Munich đã thắng tuyệt đối hai đối thủ sừng sỏ là Manchester và Real Madrit (2001) Anh cũng là người ghi bàn gỡ hoà trong trận bán kết khó khăn với Real (2002) và quan trọng nhất anh là người tung ra cú sút “thần sầu” hạ gục thủ môn Valencia để gỡ hoà giúp Bayern đoạt chức vô địch Champions league 2001.
Stefan Effenberg không phải là một con người mẫu mực và bản thân anh cũng không muốn như vậy. Cuộc đời cầu thủ của anh là một chuỗi kết nối giữa những tài năng hiếm có và, các vụ bê bối và những giờ phút đau đớn bẽ bàng. Tại VCK World Cup ’94, HLV đội tuyển Đức Berti Vogts đã lập tức đuổi Effenberg khỏi đội vì đã giơ “ngón tay ******” hướng về các cổ động viên đang la ó anh. Năm 2000 người Đức hẳn không thể nào quên việc Effenberg chịu trở lại đội tuyển chỉ để ... hạ bệ Vogts sau khi đội tuyển Đức thi đấu giao hữu không thành công trước mọt chú lùn bóng đá là ĐT Síp. Ở Munich, khi bị cảnh sát phạt vì tội say rượu lái xe thì Effenberg lại gân cổ cãi rằng ở cái thành phố rượu bia này, có vô khối những tay lái xe còn “ngất ngưởng” hơn anh.
HLV Ottmar Hitzfeld đã dành ưu ái trao cho Effenberg số áo 11 từ những ngày đầu tiên. Cầu thủ này đã đáp đền lòng tin yêu ấy bằng những thể hiện nổi trội và chuỗi thành tích đáng nể, bao gồm Đĩa bạc Bundesliga năm 1999, 2000, 2001 và Cúp QG năm 2000. Sự nghịệp của Stefan Effenberg ở Bayern đạt đỉnh cao khi ông đọat luôn chức vô địch Champion League năm 2001 và Cúp liên lục địa vào mùa thu liền sau đó.
Effenberg có 160 lần thi đấu trong màu áo Bayern, ghi được 35 bàn thắng. Ông cũng khóac áo tuyển quốc gia 35 lần (ghi 5 bàn) và giành huy chương bạc tại Euro 1992 diễn ra trên đất Thụy Điển. [Tuy nhiên, sau khi có 1 cử chỉ ko hay ho gì trong trận gặp Hàn Quốc tại vòng CK World Cup 1994, Effe đã bị HLV Vogts cấm ra sân suốt những trận còn lại và từ đó phần đường của Stefan đối với tuyển Quốc gia luôn là 1 đề tài gây nhiều tranh cãi.]
Hitzfeld chưa bao giờ che giấu sự cảm mến của mình dành cho chàng thủ lĩnh trên sân này. Vị HLV hết lời ca ngợi - “Stefan Effenberg dẫn dắt cả đội bóng, nhiều cầu thủ của tôi chơi hay hơn khi có anh ta. Effe thúc đẩy đồng đội và truyền dẫn niềm tự tin cho họ. Khi nào mọi người tìm chỗ ẩn nấp thì khi đó Effenberg sẽ bước lên.”
Ngày 5/5/2002, trước trận đấu cuối cùng của mùa giải gặp Hansa Rostock, 63.000 khán giả trên sân vận động Olympic đã đứng dậy tung hô Effe khi anh chính thức nói lời chia tay CLB. Một áp phích dài 20m với hàng chữ khổng lồ - “Milan 2001, chúng tôi sẽ ko bao giờ quên! Cảm ơn Effe!” đã được căng lên.
Ban lãnh đạo Bayern không muốn kéo dài hợp đồng với anh. HLV Ottmar Hitzfeld tuyên bố không bao giờ chịu nhả các cầu thủ như Giovane Elber, Bixente Lizarazu và mới đây còn kéo về M.Ballack và S.Deisler, nhưng với Effenberg thì mùa bóng 2001-2002 là mùa bóng cuối cùng của anh ở Munich. Bản thân Effenberg cũng đã từng tiết lộ rằng sau khi đã cùng với Bayern Munich đoạt được mọi danh hiệu, anh sẽ chuyển sang thi đấu ở Anh hoặc Mỹ, , sau khi những yêu cầu với một số CLB không được đáp trả Effenberg đã thi đấu cho Worburg và đã thi đấu đầy ấn tượng trong một số trận . Đây có lẽ là một kết cục rất có hậu cho một thủ quân lắm tài nhiều tật này.Nhưng không lâu sau đó anh đã chuyển sang Quatar thi đấu và kết thúc sự nghiệp cầu thủ của mình tại đây và có lẽ cho đến tận bây giờ bayern vẫn chưa tìm được một cầu thủ có khả năng dẫn dắt lối chơi tốt như anh.
Chủ tịch Bayern, Franz Beckenbauer, khi chia tay thủ quân đội tuyển đã nói – “Stefan đã thi đấu xuất sắc trong 4 mùa giải anh chơi cho chúng tôi, đó cũng là 1 trong những thời kỳ thành công nhất của lịch sử Bayern,và phần lớn thành tích là nhờ công của anh.” Hitzfeld đồng tình với nhận định của Kaiser – “Stefan là 1 cầu thủ tuyệt vời - là người đóng vai trò cực kỳ quan trọng giúp Bayern giành được nhiều danh hiệu như vậy”
Nhưng than ôi, ko có chức vô địch thứ 4 liên tiếp ở Bundesliga để xem như món quà chia tay của Effe, và chấn thương đã làm chàng tiền vệ tài hoa ko còn giữ được đỉnh cao phong độ trong vài tháng cuối cùng của anh ở Munich – “một điều ko may” – như lời của thủ quân mới Oliver Kahn.
Giám đốc điều hành Uli Hoeneß nhận xét - “Stefan đã có 1 buổi tiễn đưa đầy tình cảm của fans hâm mộ dành cho, và anh ấy xứng đáng với nó. Anh đã trở thành 1 nhân tố lớn của Bayern trong những năm qua, và những gì chúng tôi đạt được đa phần là nhờ vào anh, do vậy, tôi rất biết ơn Stefan về điều đó.”
Vậy còn “the Boss” đã nói gì? Ông thừa nhận - “Tôi đã có 4 mùa giải tuyệt diệu, mọi thứ, từ A tới Z, đều diễn ra một cách hoàn hảo”
Sau khi rời Bayern, Stefan chơi cho Wolfburgs ở mùa bóng 2002-2003 trước khi kết thúc sự nghiệp cầu thủ của mình ở CLB Al-Arabia 1 năm sau đó.
Thành tích:
CLB:
-Bayern Munich:
Vô địch CL 2001, Á Quân CL năm 1999
Vô địch cúp liên lục địa năm 2001
Vô địch Bundesliga: 1999,2000,2001, về năm 1991
Vô địch Pokal cúp: 1998,1999,2000
Vô địch Cúp quốc gia: 2000, Về nhì năm 1999
-Borussia Monchengladbach: Vô địch cúp QG 1995
Đội tuyển Đức: Á quân Euro 1992
The man who practices virtue never has intention to injure another
And if the harmony can be ontained with retreat, he withdraws