Share game FM24 (PC)
Hiển thị kết quả từ 1 tói 2 trong tổng số 2

Hybrid View

  1. #1
    Ngày tham gia
    10 Nov 2007
    Đến từ
    NEVERLAND
    Số bài viết
    2,089

    Các huyền thoại của bóng đá Đức

    Người Đức luôn tự hào vì có được một huyền thoại là người duy nhất vô địch thế giới trên cả cương vị cầu thủ lẫn HLV. Đó chính là :

    HOÀNG ĐẾ FRANZ BECKENBAUER


    Hồ sơ :

    Franz Anton Beckenbauer sinh ngày 11 tháng 9 năm 1945 tại Munich, CHLB Đức

    CLB : Bayern München 1964-1977 New York Cosmos (1977-1980) Hamburger SV (1980-1982 ) New York Cosmos (1983 )

    Đội tuyển quốc gia Tây Đức (1965-1977) 103 trận 14 bàn thắng

    HLV : Tây Đức (1984-1990 ) Olympique de Marseille (1990-1991) Bayern München (1993-1994, 1996)


    Thành tích :


    Cầu thủ :

    · 1969, 1972, 1973, 1974, 1982 Vô địch Bundesliga
    · 1966, 1967, 1969, 1971 Vô địch cup Quốc gia Đức
    · 1974, 1975, 1976 Vô địch Cup Châu Âu
    · 1967 Vô địch Winners Cup
    · 1977, 1978, 1980 Vô địch NASL (USA)
    · 424 trận thi đấu ở Bundesliga, 44 bàn thắng
    · 78 trận thi đấu ở các Cup Châu Âu, 6 bàn thắng

    · Giải nhì World Cup 1966
    · Giải ba World Cup 1970
    · Vô địch World Cup 1974
    · Vô địch EURO 1972

    HLV :

    · Giải nhì World Cup 1986
    · Vô địch FIFA World Cup 1990
    · Vô địch Bundesliga 1994
    · Vô địch UEFA Cup 1996


    Thông tin :




    Ông có biệt danh "der Kaiser", trong tiếng Đức có nghĩa là hoàng đế, bởi ông có một phong cách thanh lịch, khả năng lãnh đạo nổi tiếng. Tên đầu của ông, Franz, làm liên tưởng đến các hoàng đế nước Áo. Nhờ khả năng chiếm lĩnh sân cỏ xuất sắc của ông, ông được coi là cầu thủ bóng đá người Đức vĩ đại nhất của mọi thời đại và cũng là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử môn thể thao này. Cầu thủ đa tài này khởi đầu ở vị trí tiền vệ, tuy nhiên ông có khả năng thích nghi với nhiều vị trí trên sân. Ông được công nhận là người đã sáng tạo ra vị trí libero (hay còn gọi là hậu vệ quét) hiện đại và nổi tiếng khi thi đấu trong vị trí này.


    Vào năm 1954 (năm mà Tây Đức lần đầu lên ngôi vô địch Thế giới khi đánh bại đội tuyển Hungari huyền thoại), khi mới lên 9 tuổi, Franz Beckenbauer đã được nhận vào đội thiếu niên của câu lạc bộ bóng đá nhỏ có tên là SC Munich 1906. Tham gia thi đấu trong các giải trẻ của thiếu nhi rồi sau đó là thanh niên, chàng thanh niên Beckenbauer dần được tôi luyện bản lĩnh trận mạc qua từng trận đấu. Ước mơ lớn nhất của Beckenbauer khi ấy là được gia nhập đội bóng TSV Munich 1860. Mang biệt danh Những con sư tử, đây là một trong hai câu lạc bộ bóng đá lớn của vùng Bavarian - câu lạc bộ kia là Bayern Munich.

    Thế nhưng trong một trận đấu giữa đội của Beckenbauer với đội trẻ TSV Munich 1860, một sự cố đã xảy ra. Trong một pha va chạm nảy lửa giữa cầu thủ hai bên, một cầu thủ của TSV Munich 1860 đã giáng cho Beckenbauer một cái bạt tai nảy đom đóm mắt! Thế là năm 1958, khi 14 tuổi, thay vì đội bóng mơ ước TSV Munich 1860, Beckenbauer lại xin vào chơi cho đội bóng thiếu niên của Bayern Munich, một cừu thù cùng thành phố của TSV Munich 1860!

    Đôi khi số phận vẫn thường đưa người ta đi theo những ngã rẽ không ngờ như thế. Đó có lẽ là một quyết định may mắn cho Bayern Munich và cho cả Beckenbauer.


    Bóng đá ở Đức (đây là Tây Đức) sau chiến tranh gặp phải vô vàn khó khăn, mà trở ngại lớn nhất là chưa có một giải nhà nghề thực thụ để các đội bóng thi đấu. Việc theo đuổi cái nghề đá bóng quả thật là một điều mạo hiểm lớn đối với những chàng trai ôm ấp mộng trở thành cầu thủ. Chính vì thế mà gia đình Beckenbauer hoàn toàn không muốn cậu con trai của mình đi theo cái nghiệp "quần đùi áo số". Mặc dù bố của Beckenbauer, một nhân viên bưu điện, và anh trai cũng đã có thời chơi bóng đá, thế nhưng gia đình muốn Beckenbauer có một nghề nghiệp ổn định hơn, đó là lĩnh vực bảo hiểm. Bởi vậy nên chàng trai Beckenbauer trẻ tuổi trở thành một nhân viên giám sát bán hàng của một công ty bảo hiểm Tây Đức.

    Có lẽ nếu cứ tiếp tục công việc của mình thì hẳn là Beckenbauer sau này sẽ trở thành một nhân viên xuất chúng hãng bảo hiểm Alianz của Đức! Cuộc đời của Beckenbauer sẽ trôi đi một cách nhàm chán và vô vị trong vai trò của một công chức nếu như không có những biến chuyển mạnh mẽ trong đời sống bóng đá Tây Đức lúc đó. Tháng 2.1964, lần đầu tiên giải bóng đá nhà nghề hạng nhất - Bundesliga - của Tây Đức khởi tranh. Bayern Munich vẫn còn nhớ tới chàng trai có biệt tài ghi bàn trong đội hình trẻ của câu lạc bộ và quyết định gọi Beckenbauer trở lại. Niềm đam mê bóng đá cùng sân cỏ chợt bùng dậy trong Beckenbauer. Vậy là Beckenbauer quyết định từ giã cái chân công chức của hãng bảo hiểm, thay vào đó là những trận đấu bóng. Beckenbauer chính thức bước vào cuộc đời của một cầu thủ nhà nghề với việc ký hợp đồng đá cho Bayern Munich.

    Khi ấy Hùm xám vẫn còn chơi tại giải vô địch cấp vùng (tương đương với hạng hai) ở Tây Đức, nhưng ngay khi Beckenbauer xuất hiện lần đầu tiên trong vai trò tiền vệ cánh trái thì CLB đã chuyển mình và trở thành một trong những câu lạc bộ mạnh ở Bundesliga lúc bấy giờ. Ngay sau đó ông được chuyển vào đá tiền vệ giữa và được gọi vào đội tuyển Tây Đức. Trận đấu đầu tiên của ông trong màu áo đội tuyển quốc gia, Tây Đức phải gặp đội tuyển Thụy Điển trên sân khách trong trận đấu quyết định giành quyền vào vòng chung kết World Cup 1966. Đó là một trận đấu đầy áp lực cho ngay cả các cầu thủ đầy kinh nghiệm. Thế nhưng Beckenbauer cầu thủ mới 20 tuổi, ít kinh nghiệm thi đấu quốc tế đã thể hiện một bản lĩnh tuyệt vời và đã giúp đội tuyển Tây Đức dành chiến thắng 2-1 và lọt vào vòng chung kết World Cup 1966. Trận đấu này đã khiến khán giả phải biết đến tên ông và cho thấy phần nào phẩm chất của một nhà lãnh đạo trong ông.


    Trận đấu đầu tiên tại WC 1966, đội tuyển Đức gặp đội tuyển Thụy Sĩ, Beckenbauer đã nhanh chóng chứng tỏ được tài năng của mình khi đóng góp 2 bàn thắng vào chiến thắng 5-0 của đội tuyển Tây Đức. Sau đó Tây Đức hòa Achentina 0-0 và thắng Tây Ban Nha 2-1 để lọt vào vòng tứ kết. Ở trận tứ kết gặp Uruguay, đội tuyển Tây Đức chỉ với 9 cầu thủ đã đè bẹp Uruguay 4-0 trong đó có một bàn thắng của Beckenbauer. Sau đó tại trận bán kết, Beckenbauer lại một lần nữa đưa đội tuyển Tây Đức tiến vào sâu hơn nhờ cú sút từ xa bằng chân trái đánh bại thủ môn huyền thoại của Liên Xô Lev Yashin.

    Ở trận chung kết, Beckenbauer được giao nhiệm vụ đeo bám chặt cầu thủ xuất sắc nhất của đội tuyển Anh lúc bấy giờ là Bobby Charlton khiến cầu thủ này chẳng thể làm được gì. Tuy vậy cú hat-trick xuất sắc của Geoff Hurst đã giúp đội tuyển Anh chiến thắng trong một trận chung kết đầy tranh cãi. Đó cũng là khởi nguồn cho những sự kình địch giữa hai đội tuyển Anh – Đức sau này.


    Trở về Bayern Munich sau World Cup 1966, Beckenbauer đã giúp câu lạc bộ này giành Cup quốc gia Tây Đức 2 năm liên tiếp 1966 và 1967 sau đó là dành chiếc cup Châu Âu đầu tiên là chức vô đich C2 (Cup Winners’ Cup) sau khi thắng Glasgow Ranger tại trận chung kết.

    Lúc này đã là đội trưởng của Bayern, Beckenbauer cùng với thủ môn Seep Maier và tiền đạo Gerd Muller đã thành nỗi khiếp sợ cho bất kỳ đối thủ nào và bộ ba này được gọi với biệt danh là “Der Bomber”. Và Tây Đức bắt đầu cuộc chinh phục Châu Âu và thế giới của mình. Năm 1968, Beckenbauer đã ghi bàn giúp đội tuyển Tây Đức thắng đội tuyển Anh lần đầu tiên. Cuối những năm 60, Beckenbauer với sự chỉ dẫn của huấn luyện viên người Ý Giancinto Facchetti , đã tập đá ở vị trí hậu vệ cánh trái kết hợp với sự di chuyển vào giữa để ngăn chặn sự tấn công chính diện của đối phương. Chính nhờ vào những thử nghiệm này, Beckenbauer đã hình thành trong đầu khái niệm cơ bản về một vị trí mới, vị trí libero.

    World Cup 1970, tuy Tây Đức không dành chức vô địch nhưng họ đã loại được kẻ kình địch kiêm nhà đương kim vô địch, đội tuyển Anh, tại trận tứ kết. Ở trận này, đội tuyển Tây Đức đã bị dẫn trước 2-0, nhưng bàn thắng của Beckenbauer ở phút 68 đã giúp các cầu thủ Tây Đức lấy lại tinh thần và thắng ngược lại 3-2. Thế nhưng Tây Đức lại bị Italia loại ở bán kết sau khi thua 4-3 và sau đó thắng Uruguay 1-0 để dành giải ba.

    Năm 1971, Beckenbauer trở thành đội trưởng của đội tuyển Đức. Một năm sau đó, tại EURO 72, Tây Đức đã dành chức vô địch sau khi đánh bại Liên Xô 3-0 tại trận chung kết và năm đó Beckenbauer được bầu làm “ Cầu thủ xuất sắc nhất Châu Âu”.

    World Cup 1974 được tổ chức tại Tây Đức, đội trưởng Beckenbauer, lúc này đã rất nổi tiếng ở vị trí libero, tràn trề hy vọng đưa đội Tây Đức dành chức vô địch ngay trên sân nhà. Ngay cả thất bại 1-0 ở vòng bảng trước người anh em Đông Đức cũng không thể cản nổi bước họ. Dù vậy, Tây Đức cũng gặp phải một trở ngại đáng gờm đó là “cơn lốc màu da cam” Hà Lan với lối đá tổng lực và đội trưởng xuất sắc Johan Cruyff. Trân chung kết World Cup 1974 là cuộc đối đầu của 2 cầu thủ xuất sắc nhất thế giới lúc đó là Beckenbauer và Cruyff. Thế nhưng bắt đầu trận đấu lại cho thấy người Đức không thể cản nổi Cruyff và anh đã kiếm cho Hà Lan một quả penalty vào phút thứ 2 và Neeskens đã thực hiện thành công qủa penalty này. 23 phút sau, Tây Đức cũng gỡ hòa bằng một quả penalty của Breitner. Đến phút 43, Gerd Muller đã ghi bàn thắng quyết định giúp Tây Đức giành chiếc Cup vô địch World Cup 1974.



    Năm 1976, Beckenbauer lại được bầu làm cầu thủ xuất sắc nhất Châu Âu lần thứ 2 nhờ vào cú hat-trick trong trận chung kết EURO 76 với Tiệp Khắc. Tuy vậy Tây Đức vẫn bị thua sau loạt đá luân lưu. Năm 1977, Beckenbauer từ giã sự nghiệp thi đấu quốc tế sau 103 trận chơi cho đội tuyển Tây Đức. Cũng trong năm đó, ông ký hợp đồng trị giá 2,5 triệu dollar để sang chơi cho Câu lạc bộ New York Cosmos của Mỹ và giành 3 chức vô địch Soccer Bowl ở đó. Năm 1980, ông trở về Đức chơi cho câu lạc bộ Hamburg SV. Đến năm 1983, ông lại quay lại chơi cho New York Cosmos và kết thúc sự nghiệp cầu thủ tại đó vào năm 1984.

    Cũng trong năm 1984, Beckenbauer được chỉ định làm Huấn luyện viên đội Tây Đức. Và cho dù chưa có kinh nghiệm Huấn luyện viên, ông đã đưa đội tuyển Tây Đức lọt vào trận chung kết World Cup 1986 và chỉ chịu để thua 3-2 trước Achentina của thần đồng Maradona.

    World Cup 1990, dưới sự dẫn dắt của Beckenbauer Tây Đức đã trở thành một sức mạnh không gì cản nổi. Thắng tất cả các trận và chỉ hòa duy nhất 1-1 trước đội tuyển Anh ở vòng bảng, Tây Đức tràn đầy tự tin bước vào trận chung kết với đối thủ cũ Achentina. Và bàn thắng Brehme vào phút 85 đã giúp Tây Đức dành chức vô địch và ghi tên của Beckenbauer vào lịch sử World Cup với 2 lần dành Cup trên 2 cương vị khác nhau.

    Cũng năm 1990, Beckenbauer làm Huấn luyện viên cho câu lạc bộ Olympique Marseille, nhưng không thành công nên chỉ một năm sau ông phải từ chức.
    Năm 1994, Beckenbauer trở về làm Huấn luyện viên cho câu lạc bộ Bayern Munich và đưa câu lạc bộ này dành chức vô địch Bundesliga. Sau đó ông được chỉ định là chủ tịch Câu lạc bộ và kết thúc sự nghiệp làm Huấn luyện viên vào năm 1996.

    Eric Cantona đã từng nói về Beckenbauer: "Anh ta là một thủ lĩnh thực sự, có tài chi phối tất cả bằng phong cách đá bóng hoa nhã đầy kỹ thuật. Năm lên 8 tuổi, tôi xem trận chung kết World Cup 1974 giữa CHLB Đức và Hà Lan. Tôi thì mê màu áo cam, thế mà anh ấy làm tôi khóc hết nước mắt. Nhưng bây giờ thì tôi đã hiểu vì sao người ta gọi Beckenbauer là hoàng đế."


    Chủ đề tương tự:

  2. #2
    Ngày tham gia
    18 Feb 2008
    Số bài viết
    175
    Stefan Effenberg
    The 'Boss'




    Tên đầy đủ: Stefan Effenberg
    Sinh ngày: 2/8/1968
    Nơi sinh: Hamburg, Tây Đức
    Chiều cao: 1m88
    Vị trí: Tiền vệ



    Tên tuổi của Stefan Effenberg đồng hành với một trong những giai đoạn huy hòang nhất của lịch sử câu lạc bộ, khi Người lãnh đạo trời sinh này sải những bước chân dài trên đấu trường quốc tế.Tiền vệ Stefan Effenberg, một nhà lãnh đạo bẩm sinh, sở hữu khả năng lèo lái khác thường, được đồng đội nể phục trong hầu hết những tình huống căng thẳng và thử thách. “Effe” được đặt biệt danh “Cheffe” từ sớm – cách gọi thân mật cho 1 Ông Chủ Lớn.

    Bắt đầu sự nghiệp cầu thủ tại Bramfelder SV (Hamburg) khi còn là cậu bé 5 tuổi. Mới 18 tuổi Stefan đã khiến cho các chuyên gia bóng đá chú ý và được coi là một trụ cột của Borussia Moenchengladbach- Một CLB lừng danh và là lò đào tạo cầu thủ trẻ nổi tiếng của bóng đá Đức.Effenberg chuyển từ Borussia Mönchengladbach đến Bayern từ năm 1990 khi chỉ mới 22 tuổi, nhưng lượt chơi đầu tiên của ông tại đây lại ko có danh hiệu nào, để rồi được chuyển đi sau hai mùa giải.Qua Ý (đá cho Fiorentina ) rồi về lại Gladbach để tìm kiếm vinh quang nhưng không mấy thành công. Năm 1998, ông trở lại Bayern. Đây là một quyết định cực kỳ sáng suốt vì cùng với Bayern, Effe đã có thời kỳ thành công rực rỡ nhất trong sự nghiệp của mình.



    Trong những năm đỉnh cao tại Bayern Munich, Stefan Effenberg luôn được coi là tiền vệ kiến tạo hay nhất bóng đá Đức- một nhạc trưởng sân cỏ bẩm sinh thường có “những khoảnh khắc thiên tài”, nhưng lại là một cầu thủ hay gây gổ, không được người cùng thời mến mộ. Anh cũng chưa từng đoạt danh hiệu Vô Địch Châu Âu, và Vô Địch Thế Giới cùng với ĐT Đức, và các danh hiệu trên cũng chẳng bao giờ đến với anh ta nữa… bởi vì anh đã tự khia trừ mình ra khỏi đội tuyển. Tại vòng Chung Kết 1994, Stefan Effenberg luôn khiến cho người ta chú ý bởi tính cách “bất cần đời” của anh. Trên sân cỏ anh là một thủ lĩnh ban phát bóng cho đồng đội như một chú *** trống duy nhất, đẹp mã giữa một bầy *** mái. Anh xuất hiện trong lễ hội Noel trang trọng trong bộ đồ cao bồi Texax. Anh không chịu rời cặp kính râm đen kịt khi bắt tay các quan chức chóp bu của FC Bayern vào lúc lên đường sang Milan tham dự trận chung kết Champions league. Nhà đạo diễn sân cỏ tài năng từng được coi là “ linh hồn của đội bóng” này chưa bao giờ được bình chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất tháng của FC Bayern. Tuy “ cao to , đẹp trai”, nhưng các nữ cổ động viên của Bayern không hề vây quanh anh để xin chữ ký, như họ từng chen lấn nhau để cố đến gần cái anh chàng Mehmet Sholl “ thấp bé , nhẹ cân” nhưng lại có duyên thầm. Stefan Effenberg có một cái gì đó khiến người ta e ngại, không muốn gần.

    Chính khả năng luôn gieo giắc nỗi kinh hoàng cho kẻ khác lại là một thế mạnh của Effenberg trên sân cỏ. Tại Moencheldbach người ta gọi anh là “con hổ”, còn ở Munich người ta gọi anh là Effe- một cách gọi tắt tên anh. Trên sân cỏ, anh là một ông sếp ( Chef) và phong độ thi đấu của anh ảnh hưởng đáng kể đến sự thành bại của toàn đội. Tại Champions league, nhờ thành tích thi đấu xuất sắc của Stefan mà Bayern Munich đã thắng tuyệt đối hai đối thủ sừng sỏ là Manchester và Real Madrit (2001) Anh cũng là người ghi bàn gỡ hoà trong trận bán kết khó khăn với Real (2002) và quan trọng nhất anh là người tung ra cú sút “thần sầu” hạ gục thủ môn Valencia để gỡ hoà giúp Bayern đoạt chức vô địch Champions league 2001.


    Stefan Effenberg không phải là một con người mẫu mực và bản thân anh cũng không muốn như vậy. Cuộc đời cầu thủ của anh là một chuỗi kết nối giữa những tài năng hiếm có và, các vụ bê bối và những giờ phút đau đớn bẽ bàng. Tại VCK World Cup ’94, HLV đội tuyển Đức Berti Vogts đã lập tức đuổi Effenberg khỏi đội vì đã giơ “ngón tay ******” hướng về các cổ động viên đang la ó anh. Năm 2000 người Đức hẳn không thể nào quên việc Effenberg chịu trở lại đội tuyển chỉ để ... hạ bệ Vogts sau khi đội tuyển Đức thi đấu giao hữu không thành công trước mọt chú lùn bóng đá là ĐT Síp. Ở Munich, khi bị cảnh sát phạt vì tội say rượu lái xe thì Effenberg lại gân cổ cãi rằng ở cái thành phố rượu bia này, có vô khối những tay lái xe còn “ngất ngưởng” hơn anh.


    HLV Ottmar Hitzfeld đã dành ưu ái trao cho Effenberg số áo 11 từ những ngày đầu tiên. Cầu thủ này đã đáp đền lòng tin yêu ấy bằng những thể hiện nổi trội và chuỗi thành tích đáng nể, bao gồm Đĩa bạc Bundesliga năm 1999, 2000, 2001 và Cúp QG năm 2000. Sự nghịệp của Stefan Effenberg ở Bayern đạt đỉnh cao khi ông đọat luôn chức vô địch Champion League năm 2001 và Cúp liên lục địa vào mùa thu liền sau đó.

    Effenberg có 160 lần thi đấu trong màu áo Bayern, ghi được 35 bàn thắng. Ông cũng khóac áo tuyển quốc gia 35 lần (ghi 5 bàn) và giành huy chương bạc tại Euro 1992 diễn ra trên đất Thụy Điển. [Tuy nhiên, sau khi có 1 cử chỉ ko hay ho gì trong trận gặp Hàn Quốc tại vòng CK World Cup 1994, Effe đã bị HLV Vogts cấm ra sân suốt những trận còn lại và từ đó phần đường của Stefan đối với tuyển Quốc gia luôn là 1 đề tài gây nhiều tranh cãi.]

    Hitzfeld chưa bao giờ che giấu sự cảm mến của mình dành cho chàng thủ lĩnh trên sân này. Vị HLV hết lời ca ngợi - “Stefan Effenberg dẫn dắt cả đội bóng, nhiều cầu thủ của tôi chơi hay hơn khi có anh ta. Effe thúc đẩy đồng đội và truyền dẫn niềm tự tin cho họ. Khi nào mọi người tìm chỗ ẩn nấp thì khi đó Effenberg sẽ bước lên.”


    Ngày 5/5/2002, trước trận đấu cuối cùng của mùa giải gặp Hansa Rostock, 63.000 khán giả trên sân vận động Olympic đã đứng dậy tung hô Effe khi anh chính thức nói lời chia tay CLB. Một áp phích dài 20m với hàng chữ khổng lồ - “Milan 2001, chúng tôi sẽ ko bao giờ quên! Cảm ơn Effe!” đã được căng lên.

    Ban lãnh đạo Bayern không muốn kéo dài hợp đồng với anh. HLV Ottmar Hitzfeld tuyên bố không bao giờ chịu nhả các cầu thủ như Giovane Elber, Bixente Lizarazu và mới đây còn kéo về M.Ballack và S.Deisler, nhưng với Effenberg thì mùa bóng 2001-2002 là mùa bóng cuối cùng của anh ở Munich. Bản thân Effenberg cũng đã từng tiết lộ rằng sau khi đã cùng với Bayern Munich đoạt được mọi danh hiệu, anh sẽ chuyển sang thi đấu ở Anh hoặc Mỹ, , sau khi những yêu cầu với một số CLB không được đáp trả Effenberg đã thi đấu cho Worburg và đã thi đấu đầy ấn tượng trong một số trận . Đây có lẽ là một kết cục rất có hậu cho một thủ quân lắm tài nhiều tật này.Nhưng không lâu sau đó anh đã chuyển sang Quatar thi đấu và kết thúc sự nghiệp cầu thủ của mình tại đây và có lẽ cho đến tận bây giờ bayern vẫn chưa tìm được một cầu thủ có khả năng dẫn dắt lối chơi tốt như anh.


    Chủ tịch Bayern, Franz Beckenbauer, khi chia tay thủ quân đội tuyển đã nói – “Stefan đã thi đấu xuất sắc trong 4 mùa giải anh chơi cho chúng tôi, đó cũng là 1 trong những thời kỳ thành công nhất của lịch sử Bayern,và phần lớn thành tích là nhờ công của anh.” Hitzfeld đồng tình với nhận định của Kaiser – “Stefan là 1 cầu thủ tuyệt vời - là người đóng vai trò cực kỳ quan trọng giúp Bayern giành được nhiều danh hiệu như vậy”

    Nhưng than ôi, ko có chức vô địch thứ 4 liên tiếp ở Bundesliga để xem như món quà chia tay của Effe, và chấn thương đã làm chàng tiền vệ tài hoa ko còn giữ được đỉnh cao phong độ trong vài tháng cuối cùng của anh ở Munich – “một điều ko may” – như lời của thủ quân mới Oliver Kahn.

    Giám đốc điều hành Uli Hoeneß nhận xét - “Stefan đã có 1 buổi tiễn đưa đầy tình cảm của fans hâm mộ dành cho, và anh ấy xứng đáng với nó. Anh đã trở thành 1 nhân tố lớn của Bayern trong những năm qua, và những gì chúng tôi đạt được đa phần là nhờ vào anh, do vậy, tôi rất biết ơn Stefan về điều đó.”


    Vậy còn “the Boss” đã nói gì? Ông thừa nhận - “Tôi đã có 4 mùa giải tuyệt diệu, mọi thứ, từ A tới Z, đều diễn ra một cách hoàn hảo”

    Sau khi rời Bayern, Stefan chơi cho Wolfburgs ở mùa bóng 2002-2003 trước khi kết thúc sự nghiệp cầu thủ của mình ở CLB Al-Arabia 1 năm sau đó.


    Thành tích:
    CLB:
    -Bayern Munich:
    Vô địch CL 2001, Á Quân CL năm 1999
    Vô địch cúp liên lục địa năm 2001
    Vô địch Bundesliga: 1999,2000,2001, về năm 1991
    Vô địch Pokal cúp: 1998,1999,2000
    Vô địch Cúp quốc gia: 2000, Về nhì năm 1999

    -Borussia Monchengladbach: Vô địch cúp QG 1995

    Đội tuyển Đức: Á quân Euro 1992

    The man who practices virtue never has intention to injure another
    And if the harmony can be ontained with retreat, he withdraws

Qui định gửi bài

  • Bạn không thể lập chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi bài phản hồi
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết
  •